Thứ Năm, 19 tháng 9, 2019

6 Bài văn thuyết minh về cây bút bi hay đạt điểm 10 của Bộ GD

Xung quanh chúng ta có rất nhiều đồ vật gắn bó hàng ngày vô cùng giản dị, mộc mạc. Nhưng đôi lúc người ta thường không quan tâm để ý đến nó, quên mất đi sự xuất hiện của nó. Hôm nay mình sẽ giới thiệu với các bạn một vật dụng mà dân văn phòng, hay học sinh hàng ngày từng giờ từng phút đều cần sử dụng đến nó đó là cây bút bi. Một đồ dùng mà nhiều người chưa từng dùng chút thời gian để nghiên cứu về cấu tạo của nó. Hôm nay mình sẽ chia sẽ một số bài thuyết minh về cây bút bi.

[caption id="attachment_1954" align="aligncenter" width="600"]thuyết minh về cây bút bi thuyết minh về cây bút bi[/caption]

6 Bài văn thuyết minh về cây bút bi

Thuyết minh về cây bút bi bài 1

Tất cả mọi người chúng ta, đặc biệt là học sinh đều đang sử dụng rất nhiều đến cây bút bi – một phát minh vô cùng sáng của loài người, một sản phẩm viết vô cùng tiện lợi và thông dụng.

Chẳng ai khẳng định được thời gian chính xác mà chiếc bút ra đời, nhưng một điều chắc chắn rằng khi mà chữ viết ra đời thì lúc đấy cây bút ra đời. Một chiếc bút hoàn chỉnh bao gồm vỏ bút và ruột bút. Thông thường vỏ bút sẽ được làm bằng nhựa hoặc kim loại gì đó để bao quanh bảo vệ cho ruột bút dài khoảng 15cm đường kính dao động 1- 1.5 cm. Cấu tạo mà chúng ta thường thấy là vỏ bút sẽ thuôn dài và nhỏ nhất ở phần đầu bút, và đơn vị sản xuất sẽ tạo ra các đường sóng để chúng ta cầm được dễ dàng và không bị trơn khi viết. Cũng có nhiều công ti sản xuất sáng tạo thêm để bắt kịp thị hiếu của người dùng đó là thiết kế thêm phần cao su bao quanh để khi viết nhiều chúng ta không cảm thấy mỏi tay. Ruột bút dùng để chứa mực nên goi là ống mực.ống mự nhỏ mền đầu ống mực có gắn với ngòi bút được làm bằng kim loại và có gắn một viên bi vô cùng nhỏ, đường kính viên bi này tùy thuộc vào mẫu mã mà to nhỏ khác nhau. Bộ phận điều chỉnh bút bi gồm một đầu bấm mở cuối thân bút. Bộ phận này kết hợp với lò xo có hình xoắn ốc. đẻ điều chỉnh bút khi muốn sử dụng thì ta bấm nhẹ đầu bấm ngòi bút sẽ lộ ra. Khi không sử dụng bấm cho ngòi bút thị vào tránh để cho khỏi bị khô mực. Một số nhà sản xuất bút bi lâu năm và có uy tín ở nước ta như Thiên Long hay Bến Nghé họ không chỉ chú ý đến cấu tạo của bút mà còn để ý đến màu sắc, họ cho ra đời rất nhiều màu mực khác nhau vô cùng tươi sáng như xanh, đỏ, tím, vàng, … Nhằm đáp ứng nhu cầu của nhiều người khác nhau giá cả cùng vô cùng phải chăng phù hợp với phần lớn thị trường Việt Nam.

[caption id="attachment_1955" align="aligncenter" width="600"]thuyết minh về cây bút bi bài 1 thuyết minh về cây bút bi bài 1[/caption]

Bút bi được chia thành hai loại : loại dùng 1 lần và loại dùng nhiều lần. Đối với loại dùng 1 lần thì hầu hết được làm bằng nhựa khi hết mực thì bỏ đi, còn loại dùng nhiều lần thì vỏ được thiết kế vô cùng chắc chắn bằng hợp kim khi hết mực thì chỉ cần tháo ra để thay ruột là lại có thể dễ dàng viết được tiếp.

Bút bi là đồ dùng không thể thiếu đối với người học sinh, vừa tiện lợi mà cũng rất thông dụng lại hiểu quả cao cho công việc. Nó có vai trò quan trọng trong học tập và làm việc. Bút bi đích hực là một người bạn thân thiết của mỗi chúng ta. Đối với tôi chiếc bút như người bạn gắn bó trong quãng đường học tập, vì vậy tôi sẽ bảo quản thật tốt để nó gắn với tôi lâu dài.

Thuyết minh về cây bút bi bài 2

Cõ lẽ với tất cả chúng ta vật dụng không thể thiếu, vô cùng quan trọng đó chính là cây bút bi. Đã từ lâu cây bút đã trở thành một vật dùng gắn bó với chúng ta mọi lúc mọi nơi giúp chúng ta ghi chép lại mọi thứ quan trọng. Chiếc bút đã được phát minh ra với những công dụng như thế.

Đầu tiên chúng ta hãy cùng tìm hiểu sơ qua về chiếc bút nhé. Bút bi là một đồ vật mà khi nhắc đến ai cũng biết, bởi nó vô cùng thông dụng trong cuộc sống ngày nay. Bút bi có chứa một ống mực đặc, khi viết, mực được in lên giấy là nhờ chuyển động lăn của một viên bi nhỏ, với đường kính khoảng từ 0,5 đến 1. 2 mm, gắn nơi đầu ống chứa mực. Điều đặc biệt là loại mực của chiếc bút khô rất nhanh, ngay khi chúng ta viết lên giấy nó đã khô để tránh bị lem ra giấy. Những chiếc bút bi vừa rẻ tiền, vừa thuận tiện và không cần bảo dưỡng, đã cải tiến cách viết của con người. Lịch sử của chiếc bút bi như thế được ra đời bắt nguồn Một người Mỹ tên là John Loud đã xin cấp bằng sáng chế bút bi vào năm 1888 nhưng không được khai thác thương mại. Cho đến năm 1938, một nhà báo người Hungary mới giới thiệu loại bút bi hiện đại. Vào những năm 1930, László Bíró làm cộng tác viên biên tập cho một tờ báo chí nhỏ. Điều làm ông thất vọng là việc những cây bút máy luôn làm bẩn giấy tờ và thường xuyên bị hỏng. Với sự thông minh và được sự giúp đỡ của anh trai tên George, là một kĩ sư hóa học, Bíró bắt đầu công việc thiết kế ra một loại bút mới. Bíró lắp vào đầu bút một viên bi nhỏ, có thể xoay tự do trong một cái hốc. Khi di chuyển đầu bút trên giấy, viên bi đó xoay tròn, và kéo mực xuống in trên giấy. Bíró nhận bằng sáng chế Anh Quốc vào năm 1938. Thông thường có hai loại bút đó là bút dùng một lần còn loại còn lại là bút dùng nhiều lần. Đối với bút dùng một lần thì cấu tạo vô cùng đơn giản, vỏ bút được làm bằng nhựa bao quanh ruột bút khi viết hết mực thì chúng ta bỏ đi. Đối với bút sử dụng nhiều lần thì vỏ bút được làm bằng hợp kim vô cùng chắc chắn bao quanh ruột bút, khi hết mực thì chúng ta chỉ cần thay ruột bút là có thể viết tiếp được bình thường mà không cần mua một cây bút mới. Ngoài ra bút bi cũng có thể có nắp đạy khi không dùng tới, hoặc nó dùng cách kéo đầu bi vào trong khi không dùng. Để đưa đầu bi vào trong cần phải có lò xo để kéo vào. Việc điều khiển đầu bi có thể dùng nhiều cách khác nhau như dùng nút bấm ở đầu, xoay thân bút, hoặc trượt.

[caption id="attachment_1956" align="aligncenter" width="600"]thuyết minh về cây bút bi bài 2 thuyết minh về cây bút bi bài 2[/caption]

Hiện nay sự xuất hiện của bút bi thì vô cùng phổ biến. Tuy nhiên cuộc sống phát triển, có rất nhiều các loại bút khác nhau nhưng bút bi là loại thông dụng và được dùng nhiều nhất. Với thiết kế nhỏ gọn có thể ở bất cứ nơi đâu như túi xách, hộp bút, túi áo,… Những năm gần đây bút bi cũng nổi nên với một công dụng khác đó vẽ nghệ thuật. Nhiều người đã sử dụng bút bi để vẽ những hình khác nhau lên trên người họ người ta thường gọi là hình săm bút bi. Chính bởi vì sự tiếp xúc giữa mực bút và da ngời nên mực bút bi phải không được độc hại, nhiều quốc gia đã ban hành quy định về thành phần mực để an toàn với tất cả người sử dụng.

Hiện nay người ta đã phát minh ra rất nhiều loại bút với kiểu dáng khác nhau để phù hợp với những người dùng khác nhau. Cả những loại bút trong điều kiện bình thường và trong những điều kiện khí áp khí quyển thay đổi. Thậm chí còn có những loại bút trong những điều kiện bất thường không trọng lượng hoặc ở dưới nước. Có loại bút chỉ có một ngòi nhưng cũng có loại bút có đến hai ba bốn ngòi với rất nhiều những ngòi màu khác nhau như đỏ đen xanh rất hữu ích cho việc ghi chép và học tập của chúng ta. Tuy đủ màu sắc và kiều dáng phong phú thế nhưng cũng chỉ có hai loại đó là loại dùng một lần rồi bỏ và loại thay ngòi rồi có thể dùng tiếp.

Tuy bút bi rẻ và phổ biến như vậy nhưng đối với những em bé mới luyện chữ chúng ta không nên sử dụng bút bi, vì nét chữ của nó rất cứng cáp không phù hợp với việc luyện chữ mềm mại. Nếu cứ kiên quyết sử dụng thì sẽ phá bỏ nét chữ của chúng ta, khiến việc luyện chữ trở nên uổng phí. Bút bi có rất nhiều công dụng và theo thời gian nó vẫn là một dụng cụ không thể thay thế được trong cuộc sống của chúng ta. Bút bi luôn gắn với lứa tuổi học trò trên những trang nhật kí đầy nét bút yêu thương.

Thuyết minh về chiếc bút bi bài 3

Đối với những người lao động trí óc, đặc biệt là lứa tuổi học sinh thì có lẽ chiếc bút bi là một vật dụng không thể tách rời. Chiếc bút có rất nhiều công dụng không chỉ với học sinh mà tất cả mọi người không ai dám nói là chưa từng sử dụng đến cây bút bi. 

Nếu đang là học sinh còn ngồi trên ghế nhà trường thì việc sử dụng một cây bút bi là một điều hết sức bình thường. Vì nếu không có bút bi thì học sinh sẽ không học được, không viết được những bài văn, giải được những bài toán và vẽ được những hình họa tinh nghịch. Không chỉ đối với học sinh mà nhiều người khác cũng cần đến chiếc bút bi khi cần thiết. Dù là ai, làm việc gì thì việc sở hữu một chiếc bút bi là điều không thể thiếu.

[caption id="attachment_1957" align="aligncenter" width="600"]thuyết minh về cây bút bi bài 3 thuyết minh về cây bút bi bài 3[/caption]

Còn với những em nhỏ đang học mẫu giáo thì chữ của các em đang còn non nớt, trong quá trình bắt đầu luyện nét điều tối kị là sử dụng bút bi vì nét chữ của bút bi vô cùng cứng cáp sẽ khiến các chữ bị vỡ nét và xấu. Quan trọng là các em nhỏ đang trong thời gian đầu tiên luyện chữ vì vậy việc lựa chọn cây bút là vô cùng quan trọng, hãy chọn cho em những cây bút chì, sau đó khi bắt đầu viết được thì luyện chữ bằng bút máy, tốt nhất là lên cấp hai hãy bắt đầu làm quen với bút bi.

Bút bi được phát minh bởi nhà báo Hungari Lazo Biro vào những năm 1930. Sau thời gian nghiên cứu, tìm hiểu, ông Biro phát hiện ra được một loại mực in giấy rất nhanh khô. Từ đó, ông đầu tư thời gian nghiên cứu và chế tạo ra một loại bút sử dụng loại mực như thế. Hiện nay trong nước ta có một số công ty sản xuất lâu đời và có tiếng trong lĩnh vực văn phòng phẩm nói chung và bút bi nói riêng đó chính là Thiên Long, Bến Nghé,… Ở mỗi bên đều có những cấu tạo, mẫu mã riêng tuy nhiên nó đều có chung một công dụng. Bút bi được cấu thành từ hai bộ phận chính là vỏ bút và ruột bút. Bộ phận nào cũng đóng vai trò quan trọng để tạo nên sự trọn vẹn của chiếc bút chúng ta cầm ở trên tay. Bộ phận vỏ bút có thể được làm bằng chất liệu nhựa là phổ biến, hoặc một số loại bút được nhà sản xuất làm bằng kim loại nhẹ. Bộ phận vỏ bút được thiết kế chắc chắn và đẹp, có thể bảo vệ được ruột bút ở bên trong. Vỏ bút được thiết kế theo hình trụ, dài và tròn, có độ dài từ 10-15 cm. Ở trên vỏ bút có thể được sáng tạo bởi nhiều họa tiết đẹp hoặc chỉ đơn giản là có dán tên nhà sản xuất, số lô sản xuất và màu sắc của chiếc bút. Để thu hút người dùng là những bạn nhỏ lớp 6 vẫn ngây thơ và hồn nhiên nhiều nhà sản xuất đã dán thêm những họa tiết như là siêu nhân, hay công chúa. Điều này đánh đúng vào tâm lí người mua muốn sở hữu những chiếc bút có nhân vật mình thích. Hiện nay nhà sản xuất không chỉ tập trung vào cấu tạo mẫu mã của chiếc bút mà có chú trọng đến màu sắc của chúng, có khá nhiều màu sắc xanh, đỏ, tím, vàng phù hợp với những yêu cầu khác nhau của người dùng. Bộ phận thứ hai chính là ruột bút,giữ vai trò quan trọng để tạo nên một chiếc bút hoàn hỏa. Đây là bộ phận chứa mực, giúp mực ra đều để có thể viết được chữa trên mặt giấy. Ruột bút chủ yếu làm bằng nhựa, bên trong rỗng để đựng mực. Ở một đầu có ngòi bút có viên bi nhỏ để tạo nên sự thông thoáng cho mực ra đều hơn.

Ở ruột bút có gắn một chiếc lò xo nhỏ có đàn hồi để người viết điều chỉnh được bút trong quá trình đóng bút và mở bút.

Ngoài hai bộ phận chính này thì chiếc bút bi còn có nắp bút, nấp bấm, nắp đậy. Tất cả những bộ phận đó đều tạo nên sự hoàn chỉnh của chiếc bút bi bạn đang cầm trên tay.

Sử dụng bút bi rất đơn giản, tùy theo cấu tạo của bút mà sử dụng. Đối với loại bút bi bấp thì bạn chỉ cầm bấm nhẹ ở đầu bút thì có thể viết được. Còn đối với dạng bút bi có nắp thì chỉ cần mở nắp ra là viết được.

Chiếc bút bi tuy có cấu tạo đơn giản nhưng lại có vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống của chúng ta. Bút bi vẽ lên ước mơ của nhiều những cô cậu học trò. Bút bi kí nết nên những bản hợp đồng quan trọng, xây dựng mối quan hệ gắn kết với nhau.

Để chiếc bút bi bền và đẹp thì người sử dụng cần bảo quản cẩn thận và không vứt bút linh tinh, tránh tình trạng hỏng bút.

Thật vậy, chiếc bút bi có vai trò quan trọng đối với mỗi người. Chúng ta học tập và làm việc đều cần đến bút bi. Nó là người bạn đồng hành đáng tin cậy nhất.

Thuyết minh về cây bút bi bài 4

Cuộc sống hiện nay vô cùng hiện đại, trong quá trình làm việc không thể thiếu đi những cây bút bi để lưu giữ tài liệu, hay để kí kết hợp đồng. Có quá nhiều loại bút khiến chúng ta bị choáng ngợp và không biết nên sử dụng loại bút nào cho hợp lí, sự ra đời của bút bi đã đáp ứng được những yêu cầu đó. 

[caption id="attachment_1958" align="aligncenter" width="600"]thuyết minh về cây bút bi bài 4 thuyết minh về cây bút bi bài 4[/caption]

Từ những năm chữ viết ra đời bắt đầu việc học người ta đã bắt đầu nghiên cứu ra những công cụ có thể viết được chữ. Thô sơ nhất là sử dụng lông vịt, lông ngỗng chấm vào mực, mực được bào chế từ các loại lá, quả, hoa có màu sắc giã nát ra. Nhưng đó là trong những năm còn lạc hậu việc sử dụng viết lông ngỗng để viết rất bất tiện vì lúc nào cũng phải mang theo lọ mực, sử dụng xong lại phải lau sạch và việc cứ phải liên tục chấm đầu lông ngỗng vào mực cũng rất mất thời gian và sau đó một nhà báo người Hungari đã chế tạo ra cây viết mực Lazso Biro. Những năm về trước người ta thường sử dụng những cây bút mực để luyện chữ vì nét chữ của nó vô cùng mềm mại và những chiếc bút máy thì lại khá nặng. Cho đến một vài năm gần đây người ta nghiên cứu và lại phát minh ra cây bút bi. Nó làm chiều lòng tất cả mọi người đến cả những người khó tính nhất bởi những tính chất nhỏ, gọn, nhẹ rẻ . Do vậy nó được tầng lớp học sinh sinh viên sử dụng rất nhiều. Cấu tạo bên trong của bút cũng khá là đơn giản: vỏ bút được làm bằng nhựa hoặc bằng các kim loại dẻo trong suốt. Bên trong là ruột bút, ống dẫn mực, ngòi bút, lò xo. Ngòi bút có đường kính từ 0,25mm đến 0,7mm tùy theo nhu cầu của người sử dụng. Để sử dụng thì lại vô cùng dễ dàng chúng ta chỉ cần dùng tay bấm đầu bút thì ngòi bút sẽ tự động lòi ra để chúng ta viết. Còn khi không cần sử dụng có thể ấn lại đầu bút ngòi bút lại tự động lùi vào bên trong để bạn có thể thuận lợi mang đi những nơi khác mà không sợ quá trình di chuyển làm đầu bút va chạm dẫn đến hỏng hóc. Hiện nay để đáp ứng nhu cầu làm việc của những người khác nhau người ta còn phát minh ra bút nhũ, bút dạ quang,… phù hợp với người tiêu dùng, vừa phù hợp với túi tiền vừa có thể theo học sinh đến trường, theo các nhân viên văn phòng đến cơ quan,… Ngoài ra còn có các phát minh về một số loại viết có thể viết được dưới nước, ở những nơi có áp suất khí quyển thấp. Tuy bút bi có rất nhiều ưu điểm, công dụng tiện ích nhưng không thể phủ nhận một điều rằng nó rất khó rèn chữ vì ngòi bút nhỏ, trơn và rất cứng không phù hợp với những học sinh cấp Một đang luyện chữ vì khi nào nét chữ đã cứng và đẹp ta hãy sử dụng, ngoài ra bút còn rất dễ bị tắc nghẽn mực trong khi sử dụng có thể là do lỗi của các nhà sản xuất hoặc cũng có thể do chúng ta làm rơi viết xuống đất và làm ngòi bút va chạm vào các vật cứng. Việc sử dụng bút vô cùng đơn giản và giá thành của nó lại khá rẻ nhưng mọi người cũng nên bảo quản bút một cách tốt nhất để tránh trường hợp bút vẫn còn mực nhưng lại không thể viết được do bị hỏng đầu bút. Khi dùng xong hãy nhớ bấm bút để ngòi bút thụt vào bên trong không bị rơi dẫn đến bị tỏe ngòi. Ngoài ra bút bi còn có một ưu điểm mà ít ai nghĩ tới đó là biến nó trở thành những món quà nhỏ để dành tặng cho bạn bè, hay thầy cô. Ở những nơi như môi trường quân đội vừa xa nhà vừa nhớ người thân chiếc bút là một vật dụng không thể thiếu đối với các chiến sĩ, những quyển nhật kĩ với những dòng chữ chia sẻ chuyện đời chuyện thường ở doanh trại được viết nắn nót từng dòng bằng cây bút bi là những kỉ niệm vô giá đối với cuộc đời người chiến sĩ. Ngoài ra chiếc bút bi lại nhỏ gọn nên các anh chiến sĩ có thể cài lên áo mà không sợ bị rơi mất.

Bút là người bạn nhỏ, luôn sát cánh đồng hành trong công việc, học tập của mọi người, không tốn kém nhiều chi phí lại có thể sử dụng trong mọi hoàn cảnh, điều kiện ở mọi lúc mọi nơi. Chúng ta hãy biết ơn những người đẽ chế tạo ra cây bút để nhở đó chúng ta có sự hỗ trợ đắc lực trong học tập và trong công việc hiện nay vẫn đáp ứng được theo xu hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.

Thuyết minh về cây bút bi bài 5

Từ thưở xưa con người đã cần đến dụng cụ để viết. Cây bút của người cổ đại rất thô sơ bằng tre, đá và cả bằng lông chim, lông ngỗng. Nhưng để thuận tiện hơn trong việc viết lách, người ta đã phát minh ra bút bi. Cây bút bi tưởng chừng như bé nhỏ nhưng lại là phát minh đóng góp to lớn cho sự hình thành và cách mạng hóa việc viết chữ.

Nguồn gốc của cây bút bi là do một người thợ Tây phương sáng chế ra nhưng không được khai thác thương mại. Mãi đến những năm cuối thế kỉ XIX, một nhà báo người Hungary tên là Lazso Biro đã nhận thấy sự bất tiện trong việc viết bằng bút chấm mực. Loại bút mới phát minh này rất lâu khô, dễ lem, rất nặng và đầu bút nhọn. Sau đó, Lazso Biro đã cải tiến cây bút này thành một loại bút có một ống mực và đầu viết có một viên bi lăn. Nhờ sự ma sát giữa viên bi và giấy mà mực được viết ra. Thế nhưng lại một vấn đề mới được đặt ra, loại mực của chiếc bút bi này rất lâu khô và không thích hợp cho nghề báo của ông đặc biệt là phải đi nhiều nơi lấy thông tin và ghi tốc kí. Và Lazso Biro lại cặm cụi tìm cách giải quyết. Ông để ý thấy loại mực dùng để in báo rất mau khô. Ông đã vận dụng sự phát hiện này để hoàn thiện cây bút của mình. Với sự giúp đỡ của anh họ là một nhà nghiên cứu khoa học, ông đã giải quyết được tình trạng của cây bút. Cây bút của ông viết mau khô hơn. Năm 1887, ông nhận bằng sáng chế Anh quốc và từ đó bút bi được sử dụng rộng rãi cho tới ngày nay. Hiện nay chúng ta thường sử dụng hai loại bút bi phổ biến đó là loại bút dùng một lần và loại bút sử dụng được nhiều lần. Đối với loại bút dùng một lần thì cấu tạo của nó hết sức đơn giản bề ngoài chỉ là thiết kế vỏ bằng nhựa bao bọc đến phần ruột bút khi viết hết mực thì có thể vứt đi. Còn loại bút thứ hai sử dụng nhiều lần thì bề ngoài được thiết kế bằng hợp kim vô cùng chắc chắn khi hết mực chỉ cần thay ruột bút là có thể sử dụng bình thường.  Ngòi bút bi thường làm bằng kim loại có đầu nhọn hở một lỗ nhỏ có gắn viên bi đường kính từ 0,7 – 1mm. Nhờ sự ma sát của viên bi mực bám trên viên bi mà chúng ta có thể viết được. Phần vỏ bút thường làm bằng nhựa cứng hay kim loại quý (tùy theo mẫu mã và thị hiếu của người tiêu dùng). Có loại vỏ bút thiết kế thêm nắp đậy. Trong nắp có một miếng đệm cao su để mực không bị khô và viên bi không bị trầy khi va chạm nhỏ. Có loại vỏ được thiết kế với phần đầu có cái núm bấm lên xuống (đối với loại này thì bút được gắn thêm lò xo). Khi cần dùng, ta chỉ cần bấm ở đầu ngòi bút, ngòi bút sẽ lộ ra để viết, khi không viết nữa, ta chỉ cần bấm thêm lần nữa, ngòi bút lại thụt vào, tránh hư ngòi viết thật tiện dụng. 

[caption id="attachment_1959" align="aligncenter" width="600"]thuyết minh về cây bút bi bài 5 thuyết minh về cây bút bi bài 5[/caption]

Hiện nay để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng có vô số chủng loại bút bi, mẫu mã, màu sắc khá đa dạng. Có loại bút bi đậy nắp, có loại bấm ở đầu bút để ngòi lộ ra, có loại xoay thân bút,có loại trượt,… tùy vào sở thích của người sử dụng. Ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều thương hiệu bút bi, trong đó bút của các hãng Thiên Long, Bến Nghé khá uy tín. Giá một cây bút bi khá rẻ, dao động từ 1500 – 4000 đồng một cây. Một số loại bút trang trí hoặc để làm quà tặng thì có giá khá cao, từ mười mấy nghìn đến vài chục nghìn. Riêng bút bi dành cho doanh nhân, vỏ làm bằng kim loại quí thì có giá khá cao từ vài trăm nghìn đến vài triệu đồng một cây. Nói chung, bút bi hợp túi tiền với tất cả mọi người, từ học sinh – sinh viên ít tiền đến các doanh nhân thành đạt. Bút bi là loại bút rất hữu ích cho đời sống con người. Bút bi giúp cho công việc học tập, viết lách trở nên hiệu quả hơn, tiện lợi hơn. Bút bi còn có thể sáng tạo nghệ thuật, Từ chiếc bút bi, người ta có thể vẽ được bức tranh đẹp hay xăm hình nghệ thuật bằng bút bi. Và bút bi còn có thể là một món quà ý nghĩa cho người thân yêu của bạn. hẳn rằng nếu thiếu bút bi thì cuộc sống của con người sẽ khó khăn trong việc viết. Bút bi có rất nhiều công dụng mà chúng ta chưa kể hết. Bút bi đã thay đổi lịch sử về việc viết chữ của loài người.

Tuy rằng giá của một chiếc bi khá ít nhưng chúng ta cũng cần bảo quản thật tốt để có thể sử dụng được một cách lâu dài. Mỗi lần viết xong ta phải đậy nắp lại hay bấm cho ngòi bút thụt vào để tránh làm bút khô mực và nếu chẳng may va chạm hay rơi xuống đất thì không bị bể bi không dùng được. Nếu bút bị tắc mực, ta có thể dốc ngược bút xuống để mực chảy về phía đầu ngòi bút thì bút sẽ viết được trở lại. Thường khi để lâu ngày, bút dễ bị khô mực, ta có thể ngâm ruột bút trong nước ấm độ 15 phút hoặc hơn thì bút sẽ hết khô mực và viết được. Tóm lại, bút có viết được lâu bền hay không là do cách bảo quản của người sử dụng: “Của bền tại người”.

Cây bút bi – một phát minh đóng góp to lớn cho nhân loại, một đồ dùng không thể thiếu được trong cuộc sống hằng ngày. Bút bi là người bạn đồng hành của mọi người, đặc biệt là với học sinh. Bút bi vẫn mãi gắn bó với tuổi học trò đầy thơ mộng và đầy ắp trong những trang nhật kí thơm mùi mực viết. Dù thời gian có đổi thay qua những thăng trầm của cuộc sống, cây bút bi tuy được cải tiến về nhiều mặt và có thêm nhiều công dụng khác nhưng bút bi vẫn làm công việc mà nó vẫn thường làm tô điểm cho đời và hữu ích cho con người.

Thuyết minh về chiếc bút bi bài 6

Trong suốt chặng đường cắp sách tới trường chúng ta những người học sinh luôn luôn gắn bó với sách vở bút thước,… và đó có thể coi là những vật dụng không thể tách rời với chúng ta. Trong số những dụng cụ học tập ấy thì tôi yêu quý nhất là cây bút bi, một vật đã gắn bó với tôi nhiều năm và chắc trong tương lai sẽ còn hữu ích với tôi lắm!

Nhớ ngày cấp một sau một khoảng thời gian luyện chữ bằng bút chì thì tôi chuyển sang dùng bút máy tuy rằng tôi khá thích bởi nhờ nó mà chữ viết của tôi trở nên đẹp hơn nhưng khi lên cấp hai cần phải ghi những kiến thức trên bảng với tần suất nhiều và nhanh nó lại trở thành rào cản của tôi. Chữ viết lộn xộn và lem luốc rất khó coi! Lúc ấy tôi khá đau đầu vì không biết nên sử dụng cây bút nào mới phù hợp cho việc vừa nghe giảng và lại phải viết thật nhanh thì đúng dịp ấy là sinh nhật của tôi Ba mua tặng tôi một chiếc bút bi với lời khuyên: “con hãy thử xài loại bút này xem sao, hy vọng nó có ích với con”. Kể từ đó tôi luôn sử dụng loại bút này để rồi hôm nay có dịp nhìn lại, tìm hiểu đôi điều về nó.

[caption id="attachment_1960" align="aligncenter" width="600"]Thuyết minh về chiếc bút bi bài 6 Thuyết minh về chiếc bút bi bài 6[/caption]

Chiếc bút bi đầu tiên, được một nhà báo Hungary làm việc tại Anh tên Laszlo Biro giới thiệu vào năm 1938. điều khiến Ông nghĩ ra việc sáng chế ra loại bút này là vì những cây bút máy luôn gây cho Ông thất vọng, chúng thường xuyên làm rách, bẩn giấy tờ, phải bơm mực và hay hư hỏng… Vào ngày 15 tháng 6 năm 1938 ông Biro được nhận bằng sáng chế Anh quốc. Từ khi bút bi được ra đời nó đã được cải tiến nhiều để phù hợp với người dùng và đã trở nên thông dụng khắp thế giới. Tuy có khác nhau về kiểu dáng như chúng đều có cấu tạo chung giống nhau. Bút bi có ruột là một ống mực đặc, đầu ống được gắn với một viên bi nhỏ có đường kính khoảng từ 0,7 đến 1 milimet, được coi như là ngòi bút. Khi ta viết mực được in lên giấy là nhờ chuyển động lăn của viên bi này và loại mực dùng cho bút khô rất nhanh. 

Thông thường thì con người chẳng bao giờ để ý đến những thứ thân thuộc ngay cạnh mình, nói chung là không quan tâm chỉ khi cần đến thì họ mới biết được tầm quan trọng của nó. Họ hãy cố tính toán những đất nước mình đã đi trong đời, những món ăn mình được trải nghiệm, những bộ phim mình đã từng xem, một ngày đi được được bao nhiêu bước chân chứ chưa anh thử tính số bút mà họ sử dụng trong đời. Một cây bút cũng giống như cơ thể con người vậy, ruột bút là phần bên trong cơ thể, đầu bi chính là trái tim và mực chứa trong bút được ví như máu, giúp nuôi sống cơ thể. Còn vỏ bút giống như đầu, mình, tứ chi vậy… chúng phải cứng cáp thì bút mới bền, hoạt động tốt cũng như tạo cho người sử dụng cảm giác thoải mái. Màu sắc và hình dáng bên ngoài giống như quần áo, làm tăng thêm vẽ đẹp cho bút. Các chi tiết của bút dù quan trọng hay thứ yếu đều góp phần tạo nên một cây bút. Như một kiếp tằm rút ruột nhả tơ, âm thầm giúp ích cho đời để rồi khi cạn mực, chúng bị vứt bỏ một cách lạnh lùng. Mấy ai nhớ đến công lao của chúng! Hiện nay trong nước chúng ta có những công ti sản xuất lĩnh vực văn phòng phẩm nổi tiếng và lâu đời như Bến Nghé, Đông Á, Thiên Long, Hán Sơn,… họ đã nghiên cứu và cho ra đời những loại bút mang mẫu mã phong cách hoàn toàn mới vô cùng độc đáo và lạ mắt như  bút bấm, bút xoay, bút hai màu, ba màu… đủ chủng loại khác nhau nhằm đáp ứng như cầu người sử dụng. Nếu như các cậu nam sinh viên chỉ cần những chiếc bút thật đơn giản không cầu kì phức tạp để đeo lên túi áo đến trường là được, thì những bạn nữ lại thích những chiếc bút cầu kì có trang trí nhiều hình vẽ họa tiết. Điều đó đều được các đơn vị sản xuất tiếp ứng hết. Thế là những chiếc bút bi lại theo chân trò nhỏ đến trường, giúp các cô, cậu lưu giữ những thông tin, kiến thức vô giá được thầy cô truyền đạt lại với cả tấm lòng! 

Tùy mục đích sử dụng mà cây bút được thiết kế khác nhau, có cây thì vô cùng đơn giản chỉ có vỏ nhựa bao bọc có cây lại được mạ kim loại để được chắc chắn hơn. Nhìn vào chiếc bút mà bạn sử dụng người ta có thể đánh giá được “đẳng cấp” của bạn, nhưng khi nhìn vào nét chữ người ta mới có thể đánh giá được tính cách bên trong con người bạn.  “Một chiếc áo cà sa không làm nên ông thầy tu”, một cây bút tuy tốt, đắt tiền đến cỡ nào cũng chỉ là vật để trang trí nếu vào tay kẻ đầu rỗng mà thôi! Cây bút chỉ là một đồ vật vô tri vô giác, nếu vào tay một người siêng năng dùi mài kinh sử thì có thể từ cây bút bình thường nhất cũng có thể tạo ra những bài văn đặc sắc nhất, những sáng tạo hay nhất. Nhưng ngược lại dù cây bút có sang trọng bao nhiêu mà vào tay một kẻ lười biếng không chịu suy nghĩ thì cũng chỉ như vứt đi không có gì khác biệt. . Để trở thành người chủ “tài hoa” của những cây bút, người học sinh cần rèn luyện cho mình thói quen vở sạch, chữ đẹp và luôn trau dồi kiến thức học tập… hãy biến chúng thành một người bạn thân thiết, một cánh tay đắc lực trong việc học tập bạn nhé! Một số loại bút bi có thể thay ruột khi hết mực và mình xin mách các bạn một mẹo nhỏ là nếu để bút bi lâu ngày không xài bị khô mực thì đừng vội vứt bỏ mà chỉ cần lấy ruột bút ngâm trong nước nóng độ 15 phút… cây bút của bạn có thể được phục hồi đấy! Cũng như sách vở thì bút bì là vật dụng không thể thiếu khi chúng ta đến trường, nó giúp chúng ta lưu bút những điều khó quên, những kiến thức vô cùng mới mà ta chưa từng được biết vì vậy hãy bảo quản nó thật tốt nhé.

Có thể nói rằng bút bi là một trong những phát minh quan trọng của con người. Ngày nay cứ 1 giây lại có 57 cây bút bi được bán ra trên thế giới, chứng tỏ tầm ảnh hưởng quan trọng của nó. Khoa học tiến bộ, nhiều công cụ ghi chép tinh vi hơn, chính xác hơn lần lượt xuất hiện nhưng bút bi vẫn được nhiều người sử dụng bởi nó rẻ và tiện lợi. Cầm cây bút bi trên tay, nắn nót từng chữ viết cho người thân yêu, chúng ta mới gửi gắm được trong đó bao nhỉ.

Bên trên mình đã tổng hợp một số bài thuyết minh về cây bút bi, nếu bình thường bạn là một người không để ý đến mọi vật xung quanh thì thông qua bài viết này mình muốn gửi đến mọi người thông điệp nhỏ “ Hãy quan tâm đến vật xung quanh, cho dù nó là một vật dụng vô cùng nhỏ và đơn giản” . Bởi lẽ mỗi vật sinh ra đều có một ý nghĩa riêng, một công dụng riêng dù nó có như thế nào thì nó cũng đều phục vụ cho cuộc sống của chúng ta. Cảm ơn mọi người đã theo dõi bài viết.

Coi thêm bài nguyên văn tại : 6 Bài văn thuyết minh về cây bút bi hay đạt điểm 10 của Bộ GD


by via Học Dễ - Giúp bạn học tập dễ dàng hơn - Feed

Thứ Tư, 18 tháng 9, 2019

Phân tích trao duyên – 3 Bài văn mẫu đạt điểm Tối Đa

Mọi người chắc hẳn đã từng nghe nói đến tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du. Nhưng có lẽ vẫn có người chưa hiểu hết rõ về tác phẩm đặc biệt là đoạn trích “Trao duyên”. Dưới đây là bài tổng hợp về phân tích Trao duyên hi vọng mọi người sẽ hiểu rõ hơn về tác phẩm.

[caption id="attachment_1968" align="aligncenter" width="600"]phân tích trao duyên phân tích trao duyên[/caption]

3 bài văn mẫu phân tích trao duyên

Phân tích trao duyên bài 1

Nguyễn Du là nhà thơ tài hoa, nỗi lạc của dân tộc Việt Nam. Ông đã để lại vô vàn tác phẩm xuất sắc nổi bật trong đó là tác phẩm “Truyện Kiều”. Qua tên gọi “ Đoạn Trường Tân Thanh” là tiếng khóc, tiếng kêu xé lòng của những số phận tài hoa bạc mệnh trong xã hội phong kiến mục ruỗng thối nát xưa kia. Tác giả đã khắc họa được hết hình ảnh Kiều một cách vô cùng tinh tế qua đó cuộc đời nhân vật Kiều được tạo ra một cách vô cùng éo lo và khốn khổ. Điều đó thể hiện rõ nét nhất ở đoạn trích Trao duyên, khi mà Kiều phải đau khổ trao đi hạnh phúc riêng tư thầm kín. Có lẽ đây là cảnh tượng đau lòng chưa từng thấy trong nền văn học nhân loại.

Nội dung khái quát của đoạn trích là tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng đang tươi đẹp, nồng nàn thì Kim Trọng phải về Liêu Dương hộ tang chú. Trong khi đó tai họa đổ ập xuống gia đình Thúy Kiều. Của cải bị bọn sai nha vét sạch. Cha và em trai Thúy Kiều bị bắt, bị đánh. Bọn quan lại đòi đút lót “có ba trăm lạng việc này mới xuôi”. Trước biến cố đau lòng đó, một người giàu tình cảm, giàu đức hi sinh như Thúy Kiều không còn cách nào khác là phải bán mình lấy tiền cứu cha và em. Nhưng còn mối tình với Kim Trọng? Thúy Kiều hết sức đau khổ. Cuối cùng nàng quyết định nhờ em thay mình lấy Kim Trọng. Nguyễn Du đã dựng lại cốt truyện vô cùng sống động dựa vào những chi tiết của truyện Thanh Tâm Tài Nhân. Khi bắt đầu vào cuộc nói chuyện Kiều không đi vào ngay câu chuyện chính mà lại tạo ra một không khí vô cùng trang nghiêm.

“Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân” thì thấy chị mình đang thổn thức giữa đêm khuya. Vân ghé đến ân cần hỏi han. Thúy Kiều thật là khó nói, nhưng “để lòng thì phụ tấm lòng với ai”. Thương cha, nàng bán mình, thương người tình, nàng đành cậy em:

“Cậy em, em có chịu lời,

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa,

Giữa đường đứt gánh tương tư,

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc, em’’.


Cái tinh tế của Nguyễn Du nằm ở chỗ, ông đã không sử dụng từ nhờ mà lại dùng từ “Cậy” , một từ thể hiện niềm tin tuyệt đối của bản thân  mình đối với người được nhờ mà người ấy không thể thoái thác được. Chưa dừng lại ở đó tác giả tiếp tục sử dụng từ “lạy” một từ mà chẳng bao giờ người chị lại dành cho em mà lại còn chỉ để trao duyên của mình. Mối tình với chàng Kim sâu nặng biết chừng nào, thiêng liêng biết chừng nào! Trong nước mắt, giữa đêm khuya, Thúy Kiều đã kể lể sự tình cho cô em nghe:

“Kể từ khi gặp chàng Kim 

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề

Sự đâu sóng gió bất kì

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”.

Kiều rất nhanh chóng kể lại những sự việc xảy ra với mình mà Thúy Vân cũng đã chứng kiến và biết từ trước,Chuyện gặp chàng Kim trong buổi chiều thanh minh Chuyện thề nguyền hẹn ước với Kim Trọng. Chuyện sóng gió của gia đình. Nhưng có một chi tiết mà một người giản đơn như Thúy Vân không bao giờ biết được:

“Hữu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”.

Qua câu thơ thì cũng có thể cảm nhận được sự đay nghiến của tác giả Nguyễn Du dành cho xã hội phong kiến xưa khi mà chữ hiếu và tình yêu không thể đặt lên bàn cân mà so sánh được. Một xã hội mà hết sức tàn bạo độc ác khi mà bắt con người lựa chọn những lựa chọn không thể làm khác thậm chí khiến cho bản thân đau khổ tột độ. Và Thúy Kiều cũng không thoát khỏi số phận quái ác như vậy khi mà nàng đã phải từ bỏ tình yêu đẹp đẽ của mình để lựa chọn báo hiếu cho cha. Cho nên hi sinh chữ tình, nàng Kiều coi như không tồn tại trên cõi đời này nữa. Mỗi lời của nàng không phải là nước mắt mà là máu đang rỉ ra trong lòng.

“Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ thay lời nước non

Chị dù thịt nát xương mòn

 Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”.

Hai chị em đều “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” vậy mà nàng nói “ngày xuân em hãy còn dài” đau đớn biết chừng nào! Những lời nó thiêng liêng này xuất phát từ tận đáy lòng mà nàng muốn gửi đến cho Kim Trọng một phần vì khá lo cho chàng một phần cũng mong muốn chàng có thể tìm kiếm được hạnh phúc trong sự tan vỡ này. Trong khi bản thân mình đau khổ không lối thoát, thương tích đầy mình vậy mà nàng vẫn có thể suy nghĩ cho người khác. Qủa thật là một cô gái hết sức lương thiện, một cô gái mà xứng đáng được hưởng những hạnh phúc, những điều tốt đẹp nhất trong cuộc đời này. Biết là em thuận lòng, nàng trao cho em những kỉ vật giữa nàng và chàng Kim:

“Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ, vật này của chung".

Tình cảm dẫu sao vẫn còn trừu tượng, chứ kỉ vật của tình yêu thì cứ hiển nhiên hiện ra đó, cho nên Thúy Kiều trao “chiếc vành với bức tờ mây” cho em thì nàng cũng đau đớn đến tột độ. Mỗi một lời nàng nói có thể hiểu được sự đau khổ tột độ nên mới thốt ra  được câu nói nặng như chì như thế. Qủa thật là một cô gái hết sức đáng thương. Nàng trao duyên, trao lại những kỉ vật cho em mà trong lòng tràn đầy những uất hận, lòng nghẹn lại thầm trách xã hội sao mà lại vô tình đến thế. Một lời tố cáo vô cùng hùng hồn vang thấu trời xanh của Nguyễn Du.

Thúy Kiều trao duyên là coi như mình đã khuất. Nàng dặn em giữ gìn ki vật và còn dặn em hãy thương lấy linh hồn vật vờ đau khổ của chị trên cõi đời đen bạc này:

“Mai sau dù có bao giờ,

Đốt lò hương ấy, so tơ phím nàv.

Trông ra ngọn cỏ lá cây,

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.

Hồn còn mang nặng lời thề,

Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai”.

Có lẽ rằng tâm hồn của Kiều đã chết khi phải đưa ra sự lựa chọn.     Thúy Kiều tưởng tượng nàng chỉ còn là bóng ma. Lời lẽ huyền hồ bóng ma nàng sẽ hiện lên trong hương trầm và âm nhạc. Hồn ma còn mang nặng lời thề với Kim Trọng, cho nên dẫu “thịt nát xương mòn” thì hồn nàng vẫn còn quanh quẩn với “ngọn cỏ lá cây”, với “hiu hiu gió...”Tình của người bạc mệnh vẫn còn làm chấn động cả vũ trụ. Chìm trong sự đau đớn tột cùng của tình yêu, nàng quên mất trước mặt mình là Thúy Vân mà than khóc với Kim Trọng.

“Trăm nghìn gửi lạy tình quân,

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi

Phận sao phận bạc như vôi!

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”.

Có thể cảm nhận được mỗi một lời nàng nói đều đau đến xé lòng. Đứng trước nốt đau tan nát trái tim này nàng chỉ trách mình là “phận bạc”, là “hoa trôi”, những hình ảnh đó khiến chúng ta cũng có những động lòng thương cảm. Trong lòng chứa đầy vết thương lòng là vậy nhưng mỗi khi nghĩ đến Kim Trọng nàng luôn mặc cảm dằn vặt bởi vì chính nàng đã phụ chàng. Tất cả những điều đó càng khiến nàng chìm vào những đau khổ của sự tan nát tình cảm.

“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!

Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Đoạn “Trao duyên” trong “Truyện Kiều” là một khúc “đoạn trường” trong “Đoạn  trường tân thanh”. 
Bằng tất cả sự tinh tế Nguyễn Du đã cảm thấy trong truyện Thanh Tâm Tài Nhân một hình ảnh hết sức cảm động vì vậy ông đã dựng lại đoạn trao duyên một cách hết sức tình cảm và trải đầy nỗi lòng. Tác giả đã đối lập hai tính cách của hai chị em một cách tài tình: con người của đời thường và con người của phi thường. Trong sự kiện “sóng gió bất kì” này, Thúy Vân vô tư, hồn nhiên (cũng đừng vội chê trách Thúy Vân. Nhân vật này còn là một kho bí mật trong công trình nghệ thuật kiệt tác của Nguyễn Du mà chúng ta chưa kịp bàn ở đây), còn Thúy Kiều thì đau đớn.  Sự miêu tả tài tình của tác giả khiến chúng ta có thể cảm nhận được Thúy Kiều là một người lương thiện, luôn suy nghĩ cho người khác mà hi sinh đi bản thân mình. Một nhân cách như vậy mà vừa chớm bước vào đời như một bông hoa mới nở đã bị sóng gió dập vùi tan tác. Nói như Mộng Liên Đường chủ nhân: khúc đoạn trường này như có máu rỏ trên đầu ngọn bút của Nguyễn Du, như có nước mắt của thi nhân thấm qua trang giấy. Hơn hai trăm năm rồi, những giọt nước mắt nhân tình ấy vẫn chưa ráo.

Phân tích trao duyên bài 2

Tác giả Nguyễn Du là một đại thi hào nổi tiếng của nền văn học nước nhà. Ông là cây bút sáng chói đóng góp cho dòng chảy văn học nước nhà những bước chuyển mình vàng son. Nguyễn Du cùng với một số tác giả nổi tiếng khác như  Hồ Xuân Hương, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,...trong thời kì văn học trung đại tạo thành những tượng đài thơ ca người người kính phục của nền văn học nước nhà. Một trong những tác phẩm làm  nên tên tuổi của Nguyễn Du là tập truyện viết bằng chữ Nôm "Đoạn trường tân thanh" hay còn gọi ngắn gọn bằng cái tên "Truyện Kiều". Đoạn trích "Trao duyên" là một trong những đoạn tiêu biểu trong tập truyện, thể hiện sự dằn vặt, nỗi lòng đau đớn của nàng Kiều khi buộc phải bán mình chuộc cha, đành nhờ cô em Thúy Vân trả nghĩa cho chàng Kim Trọng.

Truyện Kiều được coi là một kiệt tác văn chương của nhân loại được viết dưới dạng truyện kể bằng thơ, lấy cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân người Trung Quốc. Tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân không hề được biết đến cho tới khi Nguyễn Du khai thác cốt truyện bình thường ấy thành tiếng kêu ai oán đến xé lòng, một bản sầu ca não nề của người con gái hồng nhan bạc phận. Đoạn trích "Trao duyên" từ câu 723 đến câu 756 trong phần "Gia biến và lưu lạc", tái hiện lại cuộc trò chuyện của chị em Thúy Vân Thúy Kiều. Gia đình gặp hoạn nạn, Thúy Kiều đành bán mình chuộc cha, trong tình cảnh đó, biết mình không thể giữ trọn lời thề thủy chung với Kim Trọng, nàng Kiều đành phải trao lại tấm chân tình cho Thúy Vân, nhờ em làm tròn bổn phận, giữ trọn lời hứa của mình với người yêu. Mở đầu đoạn trích là hai câu thơ

Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

Từ lúc bắt đầu Nguyễn Du đã gây cảm giác khó hiểu cho người đọc khi để cho Thúy Kiều ở vị trí phía dưới, trái ngược với cách xưng hô "chị, em".  Từ "cậy" đặt ở đầu câu chứ không phải từ nhờ tạo một cảm giác tiến thoái lưỡng nan và niềm tin tuyệt đối của người chị dành cho người em, một niềm tin không thể thoái thác.  Vốn dĩ, Thúy Kiều xét theo vai vế là chị của Thúy Vân, sẽ không cần "thưa" hay "lạy", nhưng trong hoàn cảnh ấy, nàng chấp nhận đặt mình vào vị trí của người đi nhờ vả, van xin, chỉ với mục đích giữ trọn lời hứa của mình với chàng Kim Trọng. Từ "em" được nhắc lại hai lần, đi kèm các động từ mạnh "lạy", "thưa" "cậy" mở ra một nỗi lòng chua xót, báo hiệu tương lai mịt mù, tăm tối, phải nhờ vả, dựa dẫm, mưu cầu lòng thương của người khác. Thúy Vân bất đắc dĩ lại trở thành bề trên "ngồi lên" để chị lạy, thưa đã một lần nữa nhấn mạnh kiếp người trôi nổi, bấp bênh, lỡ làng duyên phận của nàng Kiều. Kiều dùng tất cả những gì chân thành tha thiết nhất của mình để van lơi em, đồng thời đặt lên vai em sức nặng của sự tin tưởng, trông cậy. Đối với Kiều bây giờ chẳng ai có thể tin tưởng được như Thúy Vân  tình chị em được mang ra để bấu víu, Vân trở thành niềm hi vọng cuối cùng của Kiều khi nàng buộc phải rời xa gia đình, thất hẹn với người yêu. 

Thúy Kiều bày đầu bày tỏ với người em bằng tấm lòng đang bị tổn thương, rỉ máu:

Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.

Đến đây người đọc có lẽ phần nào hiểu được từ “cậy” mà ban đầu tác giả dùng thực chất là một lời phó thác dành cho Thúy Vân, một lời nhờ cậy không thể từ chối buộc Thúy Vân phải chấp nhận. Thúy Kiều mang trong mình thân phận của một người chị cả trong gia đình nên nàng cần có trách nhiệm bảo vệ những người trong gia đình thoái khỏi hoàn cảnh khó khăn như bây giờ. Nàng chấp nhận bán mình chuộc cha, vì chữ hiếu quên thân, chấp nhận lỡ duyên với người thương chứ không thể phụ lòng cha mẹ. Người con gái "đứt gánh tương tư" ấy chẳng nỡ làm Kim Trọng đau lòng, đứng trước chữ tình và chữ hiếu, nàng chỉ còn cách mong em gái Thúy Vân có thể giúp mình tiếp tục mối duyên đứt quãng. Hai tiếng "mặc em" giống như một sự phó thác trách nhiệm bằng tấm lòng tha thiết, âu sầu. Kiều thủ thỉ tâm sự với Vân về mối tình nồng thắm của minh với chàng Kim:

Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.

Qua câu thơ trên có thể cảm nhận hết được sự thống khổ của Thúy Kiều khi nhớ lại những kỉ niệm khi xưa đối với chàng Kim. Có lẽ riêng với bản thân Thúy Kiều thì mối tình đối với Kim Trọng là một tình yêu đẹp đẽ nhất, nồng nàn nhất, đáng nhớ nhất nhưng đối với Thúy Vân mối tình chính là sự trách nhiệm sự ủy thác của chị gái dành cho mình. Thúy Kiều là một người thông minh nàng hiểu hết được những sự băn khoăn, khó xử trong lòng em gái nên quyết định chọn cách tâm tình với em từ những kỉ niệm của mình để em gái cảm thấy gần gũi, cảm thông. Từ buổi gặp gỡ đến hôm thề nguyện đính ước. hình ảnh "quạt ước", "chén thề", nàng muốn khẳng định tình cảm giữa hai người là tình cảm thật lòng, sâu sắc. Kiều luôn tỏ ra mình không sao nhưng thực chất trao duyên cho em mà lòng đau như cắt, vì bản thân nàng đâu hề muốn phải sinh ra nông nỗi ấy. Cùng với sự tiếc nuối, Kiều chỉ biết trải lòng về những khó khăn bất chợt ập đến gia đình, buộc nàng vào tình thế bất đắc dĩ. "Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai", một câu nói vừa tự nhủ lòng mình, vừa là cái cớ của Kiều khi trao duyên cho Thúy Vân. Bản thân Kiều không hề muốn hai chị em phải đối mặt với nhau trong tình thế khó xử, nhưng chị đã vì cha mẹ bán mình, thì em cũng nên vì chị mà giúp chị nối tiếp tơ duyên. Người đọc dường như còn cảm thấy một khao khát nhỏ nhoi trong lòng Thúy Kiều, khao khát sống trọn vẹn, tình nghĩa, nhưng trớ trêu thay, cuộc đời bất hạnh lại không cho phép nàng thực hiện ước muốn nhỏ nhoi ấy. Kiều cũng đã lựa chọn cách tinh tế nhất để cậy nhờ em gái mình:

Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương tan
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.

Sự thật là cả Thúy Kiều và Thúy Vân đều đang đến tuổi cập kê, Kiều đã nhanh ý chọn điểm này để đánh vào tâm lí Thúy Vân trong chuyện nhờ cậy Vân nối tiếp mối tình đang còn dang dở của mình.  Xét về lý, tình ruột rà máu mủ cũng là một lý do hợp lý để Thúy Vân có trách nhiệm thực hiện những mong muốn dở dang của chị. Đồng thời, nàng Kiều cũng thể hiện sự chua xót, đắng cay khi nhắc đến cái chết "Chị dù thịt nát xương tan / Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây". Có lẽ khi Kiều quyết định lựa chọn con đường bán mình chuộc cha cũng đã có những dự cảm không lành về tương lai mịt mù tăm tối của mình.  Nếu không có những chuyện tai bay vạ gió, không có những uẩn khúc gia đình thì có lẽ giờ đây, Kiều đã được hạnh phúc với tình yêu của mình. Từng lời nói của nàng càng khiến người ta thương cảm cho số phận nghiệt ngã của mình, một số phận phải chịu sự chia lìa với gia đình, phải từ bỏ tình yêu cá nhân chẳng có gì đau khổ hơn thế nữa. Trong hoàn cảnh ấy, nàng chỉ biết nhờ đến em, để sau này khi "thịt nát xương tan", nàng vẫn có thể ngậm cười nơi chín suối, nhìn em mình và người yêu được hạnh phúc vẹn toàn, được thực hiện trọn vẹn lời hứa với Kim Trọng. Trao đi mối duyên mà nàng hằng khao khát, nâng niu là điều đau đớn đến tột cùng, nhưng Kiều đã chấp nhận chọn chữ hiếu để cứu cha, chỉ một lòng mong em hãy đồng ý giúp nàng nối tiếp mối duyên tình để không phụ lòng Kim Trọng.

Trao cho em những vật đính ước, Kiều thủ thỉ tâm tình với em những lời chân thành nhất:

Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.

Chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền, những kỉ vật của mối tình đầu thanh thuần, ngây thơ.

Những kỉ vật được coi là vật định tình của nàng với Kim Trọng giờ đây nhìn lại sao tránh khỏi sự đau lòng mất mát. Nhưng ngay lúc này đây Kim Trọng lại chẳng biết gì về sự tình bởi chàng đang ở xa  không hề hay biết tin tức gì, bản thân chuẩn bị một cuộc đời lưu lạc, chẳng rõ tương lai đi đâu về đâu, sự xót xa, đau đớn lại dâng đến tận cùng.Những kỉ vật ấy thật khó lòng buông bỏ, vì thế mà câu "Duyên này thì giữ, vật này của chung" có phần lạ kì, ngập ngừng. Duyên đã trao đi rồi nhưng hiện vật thì chẳng nỡ lòng nào chối bỏ, nên Kiều vẫn muốn giữ đó làm "của chung", của cả hai chị em. Có thể nhiều người sẽ nghĩ Thúy Kiều ích kỉ vì khi đã quyết định trao duyên đi mà trong lòng vẫn còn muốn giữ lại nhưng cũng dễ hiểu thôi bởi chẳng ai có thể đồng ý san sẻ tình yêu của mình với một người khác. "Dù em nên vợ nên chồng / Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên", một câu dặn dò của Thúy Kiều với em gái, rằng dù em thay chị kết duyên cùng Kim Trọng, nhưng bản thân chị là người yêu của chàng, chỉ mong đến ngày hạnh phúc, em đừng quên tấm lòng chị, số phận bạc bẽo đưa đẩy chị đến đường cùng chứ thật tâm chẳng hề muốn rời xa. Xét trên phượng diện tình cảm sự ngập ngùng xen lẫn một chút ích kỉ gì đó của Thúy Kiều lại hết sức dễ hiểu bởi lẽ  Kiều cũng chỉ bắt nguồn từ tình yêu chân thành, từ tấm lòng người con gái lần đầu biết yêu mà lại buộc phải chia lìa. Chỉ còn vài kỉ vật làm của tin, làm hiện vật chứng minh tình cảm, chẳng ai cam tâm trao cho người khác, kể cả đó là ruột thịt, máu mủ.

Trao lại kỉ vật cho em nhưng tâm hồn Kiều vẫn không thể nguôi ngoai, thật tâm vẫn chưa hề quên đi Kim Trọng:

Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này,
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin chén nước cho người thác oan.

Câu nói tràn đầy sự oán hận não nề của Kiều đối với một xã hội phong kiến đầy bất công đã đẩy một người con gái , không thể trở về với cuộc sống bình thường, không được đoàn tụ với gia đình. Sống trong một xã hội bất công, nơi con người sẵn sàng hãm hại nhau vì đồng tiền, Kiều không dám nghĩ đến việc mưu cầu cho hạnh phúc cá nhân mà chỉ dám mong được chứng kiến hạnh phúc của em gái và người yêu. Nhưng có lẽ nàng đã dồn tất cả sự bế tắc, não nền trong câu nói "Lò hương, ngọn cỏ lá cây, hiu hiu gió, hồn, nát thân, cách mặt khuất lời, người thác oan", hàng loạt những từ mang âm hưởng cô tịch, chết chóc như một vết cứa vào lòng người đọc. Chỉ khi bị dồn đến mức đường cùng như thế nào mà một người con gái tuổi mười tám, một độ tuổi xanh non mơn mởn lẽ ra phải yêu đời nhưng lại đã nghĩ đến cái chết bi kịch, cái chết oan khuất, bế tắc. Nhưng bản thân người con gái ấy lại chỉ mong mỏi được thanh thản, có thể giũ bỏ hết tình duyên dương thế. Đau xót thay cho một số phận tài sắc vẹn toàn nhưng sớm rơi vào lam lũ, bi kịch, chấp nhận bán mình chuộc cha nhưng vẫn nghĩ đến nghĩa tình, thề hẹn. Trong khi đang tâm sự với Thúy Vân, Kiều cũng không quên gửi gắm đến Kim Trọng những dòng đầy tha thiết và đau lòng:

Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làng
Ơi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.

Nhìn vẻ bề ngoài giống như nàng đang thật sự tâm sự với Kim Trọng nhưng không đó là những dòng độc thoại bởi lẽ người mà nàng đem lòng yêu thương hiện giờ không ở đây, đâu hay biết gì tình thế của nàng hiện tại. Nàng ý thức được số phận bạc bẽo bằng những điển cố "gương gãy", "trâm tan", những hình ảnh gợi sự chia lìa đôi lứa. Cho đến cuối cùng mục đích của cuộc trao duyên này có lẽ cũng là do mối tình nặng nghĩa của Kiều đối với Kim Trọng chưa thể kết thúc, nên trong những lời cuối gửi đến chàng, Kiều luôn muốn nhắc lại những hoài niệm tươi đẹp của hai người trước khi buộc phải tự mình cắt đứt mối duyên chẳng được bao lâu. "Muôn vàn ái ân" nay đã trở thành quá khứ, sự thật giờ chỉ còn "tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!". Song song với sự nối tiếc của tình yêu Kiều cũng khóc thương cho số phận hẩm hiu của mình Phận nữ nhi chân yếu tay mềm trong xã hội xưa đã bị rẻ rúng, giờ đây lại còn "bạc như vôi", "nước chảy, hoa trôi lỡ làng", sự bất lực, phó mặc số phận vì không có tiếng nói, không có quyền tự quyết định ếng gọi xé lòng " Hỡi Kim Lang!" thay cho một lời than, tiếng khóc tức tưởi. Cách gọi "lang" là cách gọi chồng trong xã hội xưa, cho thấy tình cảm của Thúy Kiều vô cùng chân thành, thủy chung, dù có bất kì hoàn cảnh nào thì lời thề duyên lứa của nàng đêm ấy vẫn vẹn nguyên. Nhiều người đọc lại cảm thấy sự phi lí bởi lẽ Thúy Kiều đã trao duyên cho Thúy Vân nhưng vẫn gọi bằng “lang” Phải chăng, trong dòng hồi tưởng về những giây phút ở cạnh nhau, Thúy Kiều được tạm quên đi những đớn đau nàng phải đối mặt, nhưng cảm giác tội lỗi của mình với chàng Kim, chỉ còn nàng với chàng, hai người yêu nhau say đắm, là vợ chồng. Câu gọi bật ra vừa để thể hiện ước nguyện được hạnh phúc của Thúy Kiều, vừa thể hiện tấm lòng nặng tình nặng nghĩa của nàng, một nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong xã hội xưa.

Đoạn trích “ Trao duyên” có lẽ là phần thành công nhất của tác giả trong tổng thể tác phẩm, bởi lẽ nó như bộc lộ hết được từng cung bậc cảm xúc mà nàng Kiều đã phải trải qua từ lúc quyết định bán mình để cứu cha cho đến khi phải rời bỏ người mình yêu thương. Một người phụ nữ yêu hết mình, thủy chung da diết, lại khéo léo, sắc sảo nhưng bạc mệnh, long đong. Bằng bút pháp nghệ thuật khai thác tâm lý nhân vật, để nhân vật tự bộc lộ cảm xúc qua hành động, cử chỉ, tác giả đã truyền đạt tới người đọc niềm thương xót cho bi kịch tình yêu tan vỡ của nàng Kiều. Nhờ sự tài tình của tác giả, mà khiến người đọc có thể cảm thông được số phận lênh đênh trôi dạt của Thúy Kiều. Qua "Trao duyên", Nguyễn Du cũng gửi gắm sự tôn trọng, nâng niu những con người đẹp, biết trọng chữ hiếu, vẹn chữ tình, đồng thời lên án xã hội bất công, bạc bẽo đã đẩy con người vào cửa ải chia lìa, chia cắt hạnh phúc lứa đôi của những người xứng đáng được hưởng hạnh phúc.

Phân tích trao duyên bài 3

Đối với tất cả mọi người khi nhắc đến cái tên “ Truyện Kiều” có lẽ chẳng cảm thấy xa lạ nữa. Trao duyên” là một trong những đoạn trích tiêu biểu của thiên kiệt tác này. Nhận xét về “Trao duyên”, Tản Đà từng viết: “Trong cả quyển Kiều, văn tả tình không mấy đoạn dài hơn như vậy. Đoạn này thật lâm ly, mà như thế mới biết hết tình sự”.

 “Trao duyên” là đoạn thơ bắt đầu từ câu 723 đến câu 756 của “Truyện Kiều”. Đoạn trích đã khắc họa những tâm trạng đớn đau, giằng xé của Thúy Kiều khi nhờ Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng để làm trọn chữ “tình”. Ngay từ nhan đề, đoạn trích đã gây nên sự tò mò cho bạn đọc. Chúng ta thường trao lại cho người khác vàng bạc, châu báu hay những thứ vật chất dễ nhìn thấy, dễ cầm nắm chứ mấy ai lại trao cho người khác thứ khó xác định, khó hình dung như trao duyên? “Duyên” là thứ con người khó có thể lí giải một cách thỏa đáng và nó rất khó để định hình. Vậy mà Thúy Kiều lại có hành động trao duyên, phải chăng có điều gì khó nói, uẩn khúc ở đây?

Trong cuộc đời này điều đau khổ nhất đó là từ bỏ người mà mình yêu thương, nhưng Thúy Kiều lại không thể làm khác. Nàng phải hi sinh tình cảm của riêng cá nhân mình để bán thân mình chuộc cha và em trai. Đêm cuối cùng ở nhà trước khi theo Mã Giám Sinh ra đi, Thúy Kiều đã nhờ cậy Thúy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng:

“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Như mọi người cũng biết hai từ “cậy” và “ nhờ” là hai từ đồng nghĩa, nhưng ở trường hợp này tác giả đã cho thấy sự tinh tế của mình khi sử dụng từ “ cậy” Ngoài ý nghĩa nhờ vả, mong muốn người khác giúp đỡ mình thì từ “cậy” còn hàm chứa cả lòng tin tưởng, sự hi vọng vào người được nhờ vả của chủ thể. Thúy Kiều và Thúy Vân vốn là hai chị em ruột thịt nên Kiều đã dốc hết niềm tin của mình dành cho em gái để tiếp tục mối nhân duyên còn đang dang dở đối với chàng Kim.  Thanh trắc ở từ “cậy” khiến âm hưởng câu thơ trở nên nặng nề hơn, đồng thời cũng thể hiện mức độ quan trọng của việc nhờ vả. Thông thường khi ai đó nhờ vả chúng ta chúng ta có quyền chấp hoặc từ chối nhưng trong trường hợp này Thúy Vân đã được đọc trong một trường hợp tiến thoái lưỡng nan không thể từ chối được. “Chịu lời” là một sự chấp nhận bắt buộc, không còn sự lựa chọn nào khác. Biết mình đã khiến Thúy Vân rơi vào hoàn cảnh khó xử và có lẽ sẽ khiến Thúy Vân phải chịu nhiều thiệt thòi nên nàng đã dùng lễ nghi trang trọng để bày tỏ nỗi lòng của mình với em. “Lạy”, “thưa” là những lễ nghi trang trọng thường dùng đối với các bậc bề trên trong xã hội phong kiến, đồng thời hành động ấy cũng được dành cho những bậc ân nhân, những người có ơn đối với mình. Ở đây Thúy Kiều đã coi Thúy Vân là người mà mình sẽ mang suốt cuộc đời này cho nên việc sử dụng những từ ngữ trên là một điều hết sức bình thường. Chuyện tình yêu của nàng đang tốt đẹp thì bỗng nhiên tai ương xảy đến:

“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”

“Gánh tương tư” bị “đứt” giữa đường thật đột ngột, đây là điều mà Thúy Kiều không ngờ tới. Hình ảnh “gánh tương tư” chính là ẩn dụ cho mối tình thắm thiết đó. Đêm nay chính là đêm cuối cùng mà nàng được ở nhà bởi vì từ ngày mai nàng đã trở thành vợ lẽ của người khác và phản bội lại mối tình tuyệt đẹp của bạn thân cũng như chính nàng đã phụ bạc chàng Kim, tất cả những gì đẹp đẽ đó chỉ còn trong quá khứ bây giờ không thể tiếp tục được nữa. Nhưng Thúy Kiều không phải là kẻ bạc tình, bạc nghĩa, nàng đã nhờ cậy Thúy Vân “chắp mối tơ thừa”. Có lẽ đối với Thúy Kiều mối tình đối với Kim Trọng được coi là một mối tình tuyệt đẹp nhưng đối với Thúy Vân lại có sự khác biệt bởi vì Vân vốn chẳng có tí tình cảm gì đối với chàng Kim cũng như không liên quan đến mối tình Kim - Kiều. Vậy mà giờ đây, nàng phải thay chị kết duyên với một người mà mình không hề yêu, hoàn cảnh ấy thật khó xử. Dân gian có câu “Ép dầu ép mỡ ai nỡ ép duyên”, duyên là thứ con người không nên ép buộc nhưng Thúy Vân là người mà Thúy Kiều tin tưởng nhất, ngoài Thúy Vân ra thì không ai có thể giúp nàng chuyện này. Chỉ có Thúy Vân mới có thể thay Kiều kết duyên cùng chàng Kim và cũng chỉ có Thúy Vân mới khiến nàng yên tâm gửi gắm mối duyên tình. Thúy Kiều để “mặc em” quyết định nhưng thực chất là phó thác, ép buộc Thúy Vân phải đồng ý giúp đỡ. Nàng muốn Thúy Vân hãy dùng thứ keo gắn chắc được chế từ máu của loài chim loan để nối tiếp mối duyên với Kim Trọng. Để tăng tính thuyết phục em gái Thúy Kiều còn đưa ra những lời lẽ vô cùng thuyết phục:

“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình hai lẽ khôn bề vẹn hai”

Thúy Kiều và Kim Trọng yêu nhau một cách hết sức bình thường, giản dị, lãng mạng như bao cặp đôi khác. Họ thường hay tặng nhau chiếc quạt vì chiếc quạt có hai mặt giấy hoặc lụa được dán áp sát vào nhau tượng trưng cho sự gắn kết, hòa hợp, Thúy Kiều và Kim Trong cũng như vậy. Thúy Kiều đã tặng Kim Trọng chiếc quạt trong đêm thề nguyền, ước hẹn. Điệp từ “khi” được lặp lại ba lần đã cho thấy tình cảm của họ thật khăng khít, sâu nặng. “Quạt ước”, “chén thề” gợi nhắc nàng nhớ đến đêm thề nguyền thiêng liêng ấy:

“Tiên thề cùng thảo một chương
Tóc mây một món dao vàng chia đôi”

Lời thề “Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương” đến nay đã không thể thực hiện bởi “sóng gió bất kì”. Cuộc đời sóng gió đã đẩy Thúy Kiều vào trong hoàn cảnh chỉ được một trong hai chữ hiếu hoặc chữ tình. Với sự hiếu thảo của một người con, Thúy Kiều đã hi sinh hạnh phúc cá nhân của mình để chọn chữ hiếu còn chữ tình thì nàng đã nhờ cậy Thúy Vân giúp đỡ mình. Trong một xã hội phong kiến mục ruỗng như thời xưa hiếm ai có thể thực hiện được cả hai chữ hiếu và chữ tình, Thúy Kiều cũng vậy nàng thật vị tha nàng chỉ một lòng suy nghĩ cho người khác còn mình thì chấp nhận hết mọi sự đau khổ giày vò. Sự lựa chọn chữ hiếu của nàng cũng vô cùng hợp tình hợp lí vì nàng hiểu được công ơn dưỡng dục cả cuộc đời mà cha mẹ đã dành cho bản thân mình, nên nàng thà chịu đau khổ cũng muốn họ được hạnh phúc đong đầy. Tha thiết mong muốn Thúy Vân chấp nhận lời khẩn cầu của mình, Thúy Kiều đã dùng những lí lẽ xác đáng:

“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

Thúy Vân vẫn còn trẻ hơn Thúy Kiều rất nhiều, ngày xuân vẫn  dài, và Thúy Vân là một lựa chọn vô cùng chính xác để giúp Thúy Kiều hoàn thành được tâm nguyện. Hơn nữa, Thúy Kiều còn nhắc tới cả “tình máu mủ”, tình chị em ruột thịt thì làm sao Vân có thể từ chối. Ở một thế giới khác, Kiều vẫn vui vẻ, mãn nguyện vì em đã “chắp mối tơ thừa” giúp mình. Tâm trạng ấy đã được Nguyễn Du thể hiện qua thành ngữ “thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối” Mặc dù vẫn là một người con gái mười tám tuổi độ tuổi hết sức trẻ trung yêu đời nhưng đã nghĩ đến việc ở chốn âm phủ, cửu tuyền thì cũng được “thơm lây” với hạnh phúc của Thúy Vân và Kim Trọng. Nhắc đến cái chết của chính mình, Thúy Kiều đau đớn biết nhường nào. Trong lòng đầy sự tiếc nuối nhưng Thúy Kiều cũng đành phải trao lại những kỉ vật tình yêu cho em mình. 

“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”.

AI ai cũng nói mối tình đầu là mối tình đẹp đẽ nhất, khiến người ta nhớ lâu nhất nhưng ngược lại cũng khiến cho người ta đau khổ nhất. Qủa không sai mối tình đầu với Kim Trọng đẹp đẽ, thắm thiết là thế mà bây giờ lỡ dở, làm sao Thúy Kiều không khỏi xót xa, dằn vặt?Chiếc vòng xuyến đeo tay và tờ giấy ghi lời thề ước của hai người giờ đây đã trở thành kỉ vật chung của cả Thúy Kiều, Kim Trọng và Thúy Vân. Đó vốn là những kỉ vật gắn với những kỉ niệm riêng tư của chuyện tình Kim - Kiều nhưng vì hoàn cảnh trớ trêu mà nó trở thành “của chung”. Dường như không thể kìm nén nỗi lòng được nữa nàng đã bật khóc nghẹn ngào, tiếng khóc của một người con gái mang số phận đáng thương. Nàng đau quặn lòng trao duyên cho người khác nhưng nàng đâu có muốn làm như vậy chỉ vì số phận đưa đẩy ép buộc nàng phải như vậy. Mảnh trầm hương đốt trong buổi thề nguyền và những giây phút Kiều gảy đàn bên Kim Trọng giờ đây đã trở thành quá khứ - một quá khứ gợi bao nỗi xót xa, tiếc nuối. Lí trí và tình cảm đã có sự mâu thuẫn khi nàng muốn giữ lại chữ “duyên” cho bản thân mình làm của riêng. Nàng đã hi sinh hạnh phúc cả đời của mình để chọn chữ hiếu như vậy thì nàng muốn giữ lại chữ duyên cũng hết sức hợp tình hợp lí ? Nàng hình dung ra viễn cảnh Thúy Vân và Kim Trọng “nên vợ nên chồng”, chung sống hạnh phúc còn mình là “người mệnh bạc”, số phận bạc bẽo, không may mắn.

Tuy rằng nàng đã trao duyên cho Thúy Vân nhưng trong lòng đầy những sự ám ảnh về cái chết

Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ gió cây,
Thấy hiu hiu gió, thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt, khuất lời,
Rảy xin chén nước cho người thác oan”.

Lời nhắn nhủ của nàng khiến cho người khác cảm thấy thật nghẹn lòng trước sự đau lòng tức tưởi ấy. Nàng đã mường tượng ra thảm cảnh của mình nhưng ngay cả khi trở thành một linh hồn thì nàng vẫn mang theo lời thề nguyền cùng Kim Trọng. Đó là lời thề “Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương” mà cho dù Thúy Kiều có phải “nát thân bồ liễu” cũng mong trả được nghĩa cho chàng Kim, dù tấm thân nữ nhi yếu đuối, mỏng manh không còn sống trên cõi đời thì nàng vẫn muốn mình giữ trọn lời thề của tình yêu đôi lứa. Do trần gian và cõi âm phủ “cách mặt”, “khuất lời” nên Thúy Kiều cũng chỉ xin em “rảy” giọt nước cho linh hồn oan khuất, đáng thương của mình. Thông thường, người ta thường “rảy” cả một chén nước nhưng nàng chỉ xin một giọt nước ít ỏi để rửa oan.        

Nàng hiểu rõ bản thân mình hơn ai hết

“Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làng
Ơi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”.

Từng sự dằn vặt hiện rõ trong từng câu từng chữ. Qua đoạn trích trao duyên này Nguyễn Du đã cho người khác thấy nghệ thuật miểu tả tâm lí của mình xuất sắc cỡ nào. Đoạn trích đã thể hiện tấm lòng nhân đạo, thể hiện sự đồng cảm sâu sắc của nhà thơ đối với số phận những người phụ nữ. 

Hi vọng bài tổng hợp phân tích đoạn trích Trao duyên trên có thể giúp mọi người hiểu rõ hơn về sự tài hoa lỗi lạc của đại thi hào Nguyễn Du

Tham khảo thêm bài viết gốc ở : Phân tích trao duyên – 3 Bài văn mẫu đạt điểm Tối Đa


by via Học Dễ - Giúp bạn học tập dễ dàng hơn - Feed

7 Bài văn thuyết minh về con trâu hay đạt điểm 10 của Bộ GD

Đối với người dân Việt Nam nghề trồng lúc nước là một nghề vô cùng tự hào đỗi với bạn bè quốc tế. Tỉ lệ xuất khẩu gạo đi nước ngoài hiện nay của nước ta chỉ xếp sau Thái Lan. Tuy rằng ngành công nghiệp nông nghiệp đã có nhiều bước chuyển biến mới áp dụng máy móc vào trong canh tác nhưng ở nhiều nơi vẫn còn sử dụng những chú trâu truyền thống để cày bừa. Hình ảnh trâu cày trên những thửa ruộng đã đi vào nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật, nhưng để các bạn hiểu rõ nét hơn về những chú trâu ấy hôm nay mình sẽ tổng hợp một số bài thuyết minh về con trâu. Hãy chú ý theo dõi nhé!

[caption id="attachment_1965" align="aligncenter" width="600"]thuyết minh về con trâu thuyết minh về con trâu[/caption]

Thuyết minh về con trâu bài 1

Có lẽ các bạn đã từng nghe thấy những câu thơ sau và cảm thấy nó vô cùng quen thuộc và gần gũi:

“Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà kể công
Bao giờ cây lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn”

Từ thuở xa xưa khi máy móc chưa phát triển hiện đại như bây giờ thì những chú trâu đã là người bạn thân thiết của người nông dân. Ông cha ta thường nói: “Con trâu là đầu cơ nghiệp”, có thể thấy rõ được vị trí của trâu trong lòng con người chúng ta thời bấy giờ. Trâu Việt Nam là trâu rừng thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm lầy, phân bố rộng rãi khắp Việt Nam. Từ hàng ngàn năm trước, trâu đã gắn bó với con người cùng với sự ra đời của nền văn minh lúa nước. Người Việt cổ không những biết săn trâu mà còn thuần hóa trâu, lợi dụng sức khỏe của trâu để phụ giúp trong việc đồng áng. Trâu thuộc loại động vật có vú, nuôi con bằng sữa mẹ. Thân hình của trâu trông vô cùng vạm vỡ. Lông trâu là lông mao, thường có màu đen. Da trâu rất dày và bóng loáng. Hai cái tai như hai cái lá đa, lúc nào cũng ve vẩy để đuổi ruồi, ngoài ra, tai trâu cũng rất thính, giúp trâu nghe ngóng được những tiếng động xung quanh. Mũi trâu ươn ướt, người ta thường luồn sợi dây vào mũi trâu để kéo đi cho dễ. Mắt trâu to tròn như hai hòn bi ve. Trâu cũng giống như bò, thuộc nhóm động vật nhai lại và chỉ có một hàm răng. Việc trâu chỉ có một hàm răng được người xưa lí giải qua câu chuyện “Trí khôn của ta đây”: vì trâu mải cười con hổ bị người nông dân lừa buộc vào gốc cây nên ngã lăn xuống đất, răng đập vào đã, gãy mất một hàm. Đuôi trâu ngắn, có một túm lông ở cuối. Hai cái sừng trên đầu uốn cong hình lưỡi liềm, giúp trâu tự vệ chống lại sự tấn công của kẻ thù. Trâu mỗi năm chỉ đẻ từ 1-2 lứa, mỗi lứa một con. Trâu con mới sinh ra gọi là nghé. Trâu đã khẳng định được ví trí trong cuộc sống con người. Ngày trước khi công nghệ kĩ thuật chưa phát triển chưa phát minh ra máy cày thì trâu thường xuyên phải làm những công việc mệt nhọc. Người ta thường nói cày như trâu để áp chỉ sự siêng năng làm những công việc nặng nhọc.Khi chú gà vừa thức giấc và gáy để báo hiệu một ngày mới đã bắt đầu thì trâu đã phải theo người nông dân ra đồng làm việc. Trâu cày từ thửa ruộng này, sang thửa ruộng khác từ sáng tinh mơ cho đến tận tối mịt không kể nóng nực hay đói rét. Trâu đã góp phần giúp cho nông dân có một mùa màng bội thu thóc lúa đầy nhà. Đến ngày gặt, trâu lại chở lúa từ ruộng về nhà. Tuy công việc vất cả là vậy nhưng thức ăn của trâu rất giản dị, chỉ là cỏ hoặc rơm. Trâu thường được nuôi để lấy sức kéo, ở miền núi, ngoài công việc đồng ruộng, trâu còn chở hàng hoặc kéo xe, giúp con người vượt qua những con đường trắc trở, những ngọn núi xa xôi. Vì thế, trâu chở thành một gia sản quan trọng của người nông dân. Chẳng phải ca dao đã từng nói: “ Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà/ Trong ba việc ấy, thật khó lắm thay”. Thịt trâu cũng là một loại thức ăn giàu dinh dưỡng vì có hàm lượng đạm khá cao, chất béo thấp. Sừng trâu dùng làm đồ mĩ nghệ, da trâu làm mặt trống, giày. Không chỉ trong đời sống vật chất, trâu còn gắn bó trong đời sống tinh thần của người dân Việt Nam. Trâu trở thành hình ảnh tượng trưng cho người nông dân hiền lành, chăm chỉ, chịu khó. Ở nước ta hàng năm thường tổ chức lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn. Những chú trâu tham dự cuộc thi thường là những chú trâu to nhất, khỏe nhất, được chủ chăm sóc hết sức kĩ càng. Mỗi chú trâu phải chiến đấu với biết bao với đối thủ khác để đem lại vinh quang cho bản thân cũng như vinh dự cho chủ trâu. Ngoài chọi trâu ở Đồ Sơn, chúng ta còn có lễ hội đâm trâu ở Tây Nguyên.Hiện nay đời sống phát triển nên trâu không còn phổ biến như trước nữa , tuổi thơ đẹp đẽ đáng nhớ là những hình ảnh những chú bé chăn trâu ngồi trên lưng trâu mà tấu nên những khúc sáo vi vút hay động lòng người. Trâu không chỉ đi vào ca dao, văn thơ mà còn là biểu tượng của SEA GAMES 22 được tổ chức tại Việt Nam, là hình ảnh tượng trưng cho con người Việt Nam chất phác, hiền lành, đôn hậu.Chính vì trâu rất quan trọng nên người dân nuôi trâu vô cùng quan tâm đến sức khỏe của trâu họ cũng chú ý làm chuồng cho trâu, ấm vào mùa đông, mát về mùa hè, thường xuyên vệ sinh chuồng trại sạch sẽ, tiêm vắc-xin phòng ngừa các loại bệnh cho trâu.

Ngày nay, cuộc sống đổi mới, nhiều máy móc hiện đại thay thế cho sức kéo của trâu. Tuy vậy, trâu vẫn là một báu vật quý giá với người nông dân. Mỗi khi nhìn thấy hình ảnh chú trâu trên cánh đồng bao la bát ngát, chúng ta sẽ bất giác nghĩ tới quê hương đầy thanh bình, yêu dấu.

Thuyết minh về con trâu bài 2

Nếu bạn đã từng có cơ hội đi qua làng quê Việt Nam thì chắc chắn đã từng bắt gặp hình ảnh những chú trâu đang gặm cỏ hoặc đang cày bữa. Con trâu là người bạn vô cùng thân thiết và chiếm vị trí quan trọng trong lòng người dân Việt Nam.Và đã được xem là biểu tượng của người nông dân Việt Nam.

Từ hàng ngàn năm nay con trâu được biết đến là biểu tượng của sự cần mẫn và chăm chỉ. Nếu bạn có quê ở những vùng đồng bằng hay những vùng trồng lúa nước, lương thực thì sẽ bắt gặp hình ảnh những con trâu đang cần mẫn kéo cày trên bờ ruộng, giúp xới tơi những thửa đất cho người nông dân gieo trồng dễ dàng hơn. Có thể hiểu được rằng con trâu là một người bạn đã giúp rất nhiều việc cho người nông dân. Trâu là con vật không thể thiếu đối với người nông dân Việt Nam. Trâu bắt nguồn từ trâu rừng, vì sau nhiều thế kỉ con người và loài vật đều được thuần hóa và trở thành một loài trâu hiền lành. Lông trâu thường có màu xám đen, thân hình vạm vỡ. Với đôi sừng nhọn, uống cong như hình một lưỡi liềm người ta sử dụng đôi sừng đó làm đồ trang sức. Trâu là loài động vật thuộc lớp có vú. Trâu nuôi chủ yếu để kéo cày, trâu đực trung bình cày bừa từ 3~4 sào còn trâu cái có thể cày bừa từ 2~3 sào, không những vậy trâu còn được coi là một tài sản quý của của nhà nông.

Trong những thời đại trước trâu còn dùng để kéo xe, chở hàng và có thể kéo tải trọng từ 400~500kg. Con trâu còn có thể kéo gỗ củi và hàng hóa. Trâu cung cấp cho ta rất nhiều sản lượng về lương thực và sữa. Đem bán thịt trâu cũng thu được những khoản tiền đáng kể. Người ta thường trồng cây xen lẫn các cây ăn quả, phân trâu ủ xanh là thuốc bón tốt nhất cho cây. Trâu chính là tài sản nên rất được người dân chăm sóc rất chu đáo.

Một trong những hình ảnh đã được chụp lại, và in thành tranh ảnh vô cùng giản dị và mộc mạc đã in đậm trong tâm trí của người Việt Nam đó là hình ảnh con trâu ung dung gặm cỏ non, xanh mát và trên trời là những cánh diều bay cao giữa không trung. Lưng trâu gắn liền với rất nhiều hình ảnh như thả diều, đọc sách, thổi sáo,… của những đứa trẻ mục đồng. Rồi sau này những đứa trẻ ấy dần lớn lên đều trưởng thành mỗi người sẽ đi về một ngã để phát triển bản thân nhưng những hình ảnh đẹp đẽ thời thơ ấu này có lẽ sẽ mãi ở trong tâm trí của mỗi người.Trâu không những chỉ cày bừa mà còn tham ra vào nhiều lễ hội truyền thống như chọi trâu Đồ Sơn. Lễ hội chọi trâu ở Hải Phòng là nổi tiếng nhất ở Việt Nam. Hải Phòng là vùng đất có truyền thống văn hoá với nhiều di tích lịch sử và danh thắng mang đặc trưng của miền biển. Trong những di sản văn hoá ấy, nổi bật là lễ hội chọi trâu Đồ Sơn - một lễ hội mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Lễ hội nói chung là một sinh hoạt văn hoá, tôn giáo, nghệ thuật truyền thống phản ánh cuộc sống vật chất và tâm linh của một cộng đồng trong quá khứ. Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn được khôi phục lại hơn 10 năm nay và được Nhà nước xác định là 1 trong 15 lễ hội quốc gia, bởi lễ hội này không chỉ có giá trị văn hoá, tín ngưỡng, độc đáo mà còn là điểm du lịch hấp dẫn với mọi người. Ở Đồ Sơn vẫn có câu thành ngữ "Trống mọi làng cùng đánh, thánh mọi làng cùng thờ" để lập luận Hội chọi trâu ra đời cùng với việc trở thành hoàng làng.

Tìm hiểu nguồn gốc ấy để thấy rằng lễ hội chọi trâu có một ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống người Đồ Sơn từ xưa tới nay. Ngoài nhu cầu vui chơi, tìm hiểu, qua lễ hội người ta tưởng nhớ đến công ơn của các vị thần, duy trì kỷ cương làng xã, để cầu nguyện cho "nhân khang, vật thịnh".

Bởi vậy mới thấy được con trâu gắn  bó với người những người nông dân Việt Nam. Nó không những mang lại cho những người nhân dân việt nam về mặt vật chất mà còn mang lại cả về mặt tinh thần. Con trâu còn gắn bó với những lễ hội tiêu biểu của người dân Việt Nam. Nó đã là biểu tượng của của làng quê Việt Nam và Đất nước Việt Nam.

Thuyết minh về con trâu bài 3

Khi nhắc đến con trâu điều đầu tiên mà chúng ta nghĩ đến đó là một con vật to khỏe vô cùng hiền lành và siêng năng. Những hình ảnh còn trâu cần mẫn kéo cày trên cánh đồng bát ngát thường xuyên đi vào những bức tranh phong cảnh mà chúng ta hay thấy. Có thể nói con trâu gắn bó thân thiết với người nông dân Việt Nam: con trâu – là động vật nhai lai thuộc họ bò, phân bộ nhai lại, nhóm sừng rỗng, bộ guốc chẵn, lớp thú có vú - loài động vật này chủ yếu vào việc cày kéo.

Ở Việt Nam trâu bắt nguồn từ nhóm trâu rừng thuần chủng, và thuộc lớp trâu đầm lầy. Lông màu xám hoặc xám đen, thân hình vạm vỡ, thấp ngắn bụng to, mông đốc, bầu vú nhơ, sừng có hình lưỡi liềm. Ngày xưa, người ta phân biệt trâu lành hay trâu dữ là một phần nhờ vào đôi sừng trên chỏm đầu: sừng dài, uốn cong hình lưỡi liềm cùng cặp mắt to dữ thì phải coi chừng và có biện pháp thuần phục. Nếu trâu cái trung bình từ 350-400 kg có tầm vóc từ vừa đến to, linh hoạt và hiền lành thì trâu đực nặng từ 400-450kg có tầm vóc lớn, cân đối, dài đòn trước cao sau thấp, tính khí hăng hái nhưng hiền lành. Ngoài ra trong văn hóa tinh thần Việt Nam con trâu còn là một biểu tượng không thể thiếu. Từ bao đời nay chúng ta thường xuyên bắt gặp những hình ảnh quen thuộc của người nông dân như con trâu theo trước cái cày theo sau. Ngày xưa khi mà máy móc chưa phát triển và phổ biến như bây giờ không có máy cày cũng chẳng có máy xới chỉ có trâu luôn trung thành với chúng ta dãi nắng dầm mưa không quản thời tiết giúp chúng ta cày xới những thứa  ruộng tốt tươi. Nhờ có trâu giúp mà năm nào mùa màng cũng bội thu người dân nô nức đẩy những xe thồ đấy lúa, lương thực về nhà.

Con trâu được xem là một con vật linh thiêng bởi vì nó nằm trong mười hai con giáp mà người Việt Nam cũng như người phương Đông dùng để tính tuổi, tính năm. Ngoài ra, con trâu còn được đưa vào nhiều bức tranh của làng tranh Đông Hồ nổi tiếng như bức tranh "Trẻ em cưỡi trâu thổi sáo". Và con trâu cũng đã được xem là biểu tượng của Seagames 22. Đông Nam Á tổ chức tại Việt Nam. Biểu tượng Trâu Vàng mặc quần áo cầu thủ đón các vận động viên của các nước bạn vào ngày 25/12/2002 là sự tôn vinh con trâu Việt Nam người dân Việt Nam.

Những kỉ niệm dưới làng quê mộc mạc giản dị, những ngày chăn trâu cắt cỏ, ngồi trên lưng trâu mà thả diều thổi sáo sẽ là những hình ảnh khó quên của những người con xa xứ. Trâu luôn là con vật không thể thiếu ở làng quê Việt Nam - con vật linh thiêng trong sâu thẳm tâm hồn người dân Việt Nam. Con vật thiêng ấy sẽ mãi mãi in đậm trang kí ức của người dân Việt, nhất là những người xa xứ.

Thuyết minh về con trâu bài 4

Hình ảnh làng quê Việt Nam lúc nào cũng mộc mạc giản dị bao gồm những lũy tre, cây đa, giếng nước sân đình, những cánh đồng lúa thẳng cánh cò bay và cũng không thể không kể đến hình ảnh những chú trâu béo tròn đanh ung dung gặm cỏ. Từ bao đời nay, khi nhắc đến hình ảnh con trâu chúng ta lại nghĩ đến vai trò to lớn của nó đối với nông nghiệp Việt Nam, đó là biểu tượng của sự cần cù, chăm chỉ, chất phác của con người Việt Nam. 

Chúng ta vẫn thường được nghe câu nói “ Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Không phải tự nhiên mà trâu lại có vị trí quan trọng trong lòng người nông dân Việt Nam. Bởi lẽ đối với những người nông dân Việt Nam, chân lấm tay bùn quanh năm bán mặt cho đất bán lưng cho trời thì trâu chính là một tài sản vô cùng lớn và quý giá. Trâu Việt Nam được người ta nghiên cứu nhiều và đưa ra nhiều xuất sứ khác nhau, tuy nhiên chưa có tài liệu nào đưa ra chính xác được nó ra đời như thế nào. ùy vào điều kiện thiên nhiên địa lí mà trâu ở mỗi vùng miền lại có những đặc tính sinh trưởng khác nhau. Ở Việt Nam khí hậu nhiệt đới gió mùa nên trâu có nguồn gốc là trâu rừng thuần hóa, hay còn gọi là trâu đầm lầy. Trâu có hai loại: Trâu đực và trâu cái. Chúng có đặc tính giống nhau nhưng về hình dáng, kích thước thì khác nhau một chút, tuy nhiên không đáng kể. Trâu đực thường to và cao hơn trâu cái, sừng to và dày hơn, đôi chân chắc nịch, lúc chạy rất nhanh. Đầu của trâu đực nó hơn trâu cái một chút.

Tuy với những sự khác nhau như vậy nhưng đặc tính của trâu là hiền lành, chậm chạp, nặng nề. Mỗi con trâu trưởng thành có khối lượng từ 200kg đến 500kg tùy vào sức khỏe của mỗi con. Một đặc điểm rất dễ nhận dạng của trâu chính là không có hàm răng trên. Trâu thuộc động vật nhai lại, sức nhai của trâu rất bền. Sừng của trâu dài và cong cong, rất chắc chắn nhưng cấu tạo bên trong đều rỗng tuếch. Chân của trâu rất chắc, ngắn, mập, lúc bước đi thường chệnh choạng ra hai bên. Sức chịu đựng của trâu rất dẻo dai, nó có thể chở được rất nhiều đồ đạc. Tấm thân của trâu dường như rất chắc chắn, da của nó rất dai. Ngày xưa cha ông ta vẫn làm áo bằng da trâu. Thường thì lông trâu thường có màu đen, nhưng có một số con trâu có màu vàng nhạt, đó là do giống lai.

Trâu giúp đỡ chúng ta nhiều không chỉ có những công việc cày bừa mà kéo lúa, kéo ngô, chở hoa màu... trâu đều có thể làm hết giúp người nông dân thêm rất nhiều sức lực. Trâu có một sức khỏe vô cùng bền bỉ, nó làm việc quần quật cả ngày mà chẳng hề biết mệt ấy vậy mà thức ăn của chúng lại vô cùng đơn giản đó chính là rơm, rạ nhưng một khi uống nước thì nó lại uống rất nhiều. hời tiết thay đổi cũng có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của trâu nên vào mùa hè người nông dân thường cho trâu ra ao tắm tầm 30 phút hằng ngày, vào mùa đông thì giữ ấm cho trâu bằng việc lót rơm rạ ở chuồng cho trâu nằm. Trâu là động vật sinh con và nuôi con bằng sữa, mỗi năm nó sẽ sinh ra một con nghé con. Người nông dân rất coi trọng trâu nên việc đảm bảo nên việc chăm sóc, nuôi dưỡng và bảo vệ là cực kì cần thiết. Người nông dân nếu thiếu đi con trâu thì sẽ không làm được gì vì nó có sức kéo, sức cày bừa, sinh đẻ...Bên cạnh đó trâu còn là con vật linh thiêng trong các lễ hội chọi trâu lớn. Thịt trâu ăn rất ngon, thơm và bổ dưỡng. Sừng trâu, da trâu còn dùng để làm các trang sức, quần áo cho con người. Không biết mọi người còn nhớ đến sự xuất hiện của trâu trong  Seagame 22 tại Việt Nam thực sự là biểu tượng, là niềm tự hào của nhân dân việt nam. Nó mang ý nghĩa biểu trưng cho sự cần cù, chăm chỉ, cần mẫn, hiền lành của người nông dân. Một hình ảnh đáng trân trọng.

Hiện nay tuy có nhiều máy móc phát triển làm thay những công việc của trâu nhưng đối với người nông dân thì trâu luôn luôn là một vị trí quen thuộc trong tình thần họ.  Hơn hết nó chính là nét đẹp của con người Việt Nam.

Thuyết minh về con trâu bài 5

Từ bao đời nay hình ảnh con trâu cái cày đã gắn bó mật thiết đối với người dân Việt Nam. Trâu Việt Nam là trâu rừng thuần háa, thuộc nhóm trâu đầm lầy và thường sống ở miền khí hậu nhiệt đới. Thân hình vạm vỡ nhưng thấp, ngắn. Bụng to. Da dày màu xám đen nhưng vẫn tạo cảm giác mượt bởi bên ngoài được phủ một lớp lông mềm. Điều đặc biệt ở trâu mà không thể không nhắc đến đó là trâu thuộc họ nhai lại.
Việc đồng áng của người nông dân Việt Nam từ xuân cho tới đông đều có trâu giúp đỡ chính vì vậy trâu chính là một người bạn thân thiết của người nông dân Việt Nam. Thân hình to khỏe, vạm vỡ lại công thêm tính nết hiền lành siêng năng nên trâu thường gánh những việc nặng giúp người nông dân.Từ sáng tinh mơ khi mặt trời còn chưa lên núi, những chú gà trống bắt đầu cất tiếng gáy báo hiệu một ngày mới đã tới trâu đã theo người nông dân ra đồng. Trâu làm quần quật từ sáng sớm tinh mơ cho đến trời tối mịt. Nhựa sống căng tràn trong từng bước đi vững chắc nhưng chậm chạp của trâu.

Trâu là nguồn cung cấp sức kéo quan trọng. Lực kéo trung bình của trâu trên đồng ruộng là 70 - 75kg, tương đương 0,36 - 0,1 mã lực. Trâu loại A một ngày cày được 3 - 4 sào Bắc Bộ, loại B khoảng 2 - 3 sào và loại C khoảng 1,5- 2 sào. Trâu còn được dùng để kéo đồ, chở hàng. Trên đường xấu, trâu có thể kéo với tải trọng là 400 - 500 kg, đường tốt là 700 - 800 kg, còn trên đường nhựa với bánh xe hơi thì tải trọng có thể lên đến 1 tấn. Trên đường đồi núi, trâu kéo từ 0,5 – 1m khối gỗ trên quãng đường 3 - 5km. Khỏe như vậy nhưng bữa ăn của trâu rất giản dị, chỉ là rơm hoặc cỏ. Trâu cũng là một trong những nguồn cung cấp thực phẩm cho con người. Thịt trâu có hàm lượng đạm khá cao, hàm lượng chất béo thấp. Sữa trâu có tính năng cao trong việc cung cấp chất đạm, chất béo. Da trâu làm mặt trống, làm giày.  Sừng trâu thì làm lược, tù, và nhiều vật dụng khác.Trâu không chỉ hiện diện trong đời sống vật chất của con người Việt Nam nó còn hiện diện cả trong đời sống tinh thần của chúng ta. Từ thời xa xưa trong mười hai con giáp đã xuất hiện trâu hay còn gọi là ngưu, sửu. Trâu gắn liền với tuổi tác của con người, những người mang tuổi trâu thường vô cùng khỏe mạnh, hiền lành, chịu thương chịu khó. Trong đời sống văn hóa tinh thần, trâu còn là con vật thiêng dùng để tế lễ thần linh trong ngày lề hội cơm mới, lễ hội xuống đồng. Trâu còn đóng góp trong những lễ hội nổi tiếng như trọi trâu Đồ Sơn – Hải phòng. Những chú trâu tham gia đều là những chú trâu được chọn lựa huấn luyện kĩ càng, con nào con nấy vạm vỡ sừng nhọn hoắt vô cùng dũng mãnh và oai nghiêm.rong tiếng trống giục giã, trong tiếng hò reo cổ vũ của mọi người hai con trâu lao vào nhau mà húc, mà chọi. Ngoài ra, chúng ta còn có lễ hội đâm trâu. Đây là phong tục tập quán của một số dân tộc ở Tây Nguyên. Con trâu bị giết được đem xẻ thịt chia đều cho các gia đình trong buôn làng cùng liên hoan mừng một vụ mùa bội thu.Chưa hết phải kể đến Đinh Bộ Lĩnh – một người tài giỏi đã làm nên kì tích khi thống lĩnh 12 sứ quân đã có tuổi thơ gắn bó với lưng trâu trong trò đánh trận giả. Chắc mỗi chúng ta cũng chẳng còn lạ lẫm với hình ảnh những chú bé chăn trâu ngồi trên lưng trâu thả những con diều bay vút lên cao trên bầu trời xa xăm, hoặc những tiếng sáo lanh lảnh. Tất cả những điều đó đều là kí ức về một tuổi thơ vô cùng đẹp đẽ, một kỉ niệm đáng giá mà tôi nghĩ có lẽ ai trong cuộc đời này cũng phải trải qua một lần mới hiểu hết được vẻ đẹp đồng quê của đất nước Việt Nam xinh đẹp chúng ta.

Có thế mới hiểu hết được tầm quan trọng của những chú trâu – người bạn gắn bó thân thiết đối với người dân Việt Nam. 

Thuyết minh về con trâu bài 6

Đã từ rất lâu rồi trâu đã trở thành người bạn thân thiết đối với nền nông nghiệp nước ta. Hình ảnh con trâu theo trước cái cày theo sau là một hình ảnh vô cùng quen thuộc và là nét đẹp tâm hồn của người dân Việt Nam từ ngàn đời nay.

Theo nhiều tài liệu ghi lại thì trâu Việt Nam có nguồn gốc từ trâu rừng thuần hóa, chúng có một cặp sừng vô cùng chắc khỏe, một đôi mắt vừa to vừa đen láy, chiếc mũi to, và đôi tai lúc nào cũng ve vẩy vô cùng đáng yêu. Đặc biệt cấu tạo hàm răng trên của trâu vô cùng đặc biệt nó gắn liền với một sự tích ngày xưa mà mọi người đã từng nghe rất nhiều. Truyện kể rằng trong sự tích trí khôn của ta đây sau khi thấy hổ thua loài người một cách đau điếng và ngu dốt trâu đã cười rất sảng khoái đến nỗi va luôn vào đã mà bay mất hàm răng dưới. Truyện xưa đã giải thích mọi chuyện một cách vô cùng hợp lí và thuyết phục như vì sao hổ lại có một vết vằn trên lông, hay tại sao trâu lại chỉ có hàm răng trên. Trâu Việt Nam vô cùng khéo léo, chúng có bộ lông đen xám từng sợi lông vô cùng cứng. Thân hình to béo, vạm vỡ, bụng to, mông dốc. Chiếc đuôi nhỏ nhắn lúc nào cũng ve vậy như muốn “làm điệu” nhưng sự thật là chúng chỉ muốn đuổi những con ruồi muỗi, và côn trùng. Trâu có bốn chân cơ bắp cuồn cuộn vững chãi như cột nhà. Từng bạn chân có móng sắc để bảo vệ giúp đi được vững hơn. Nhìn tổng thể trâu có bốn chân vô cùng to lớn, với đôi sừng to khỏe cong và nhọn hoắt khiến những con vật khác phải kinh nể. Tuy to khỏe là vậy nhưng thức ăn của trâu lại hết sức đơn giản như: cỏ, rơm rạ, lá mía,… đặc biệt trâu uống rất nhiều nước. Mùa đông khi mà thức ăn đang bắt đầu khan hiếm, trâu không kén ăn như những con vật khác trâu chỉ cần ăn rơm rạ phơi khô. Với bản tính siêng năng cần cù làm thì vô cùng nhiều nhưng ăn chẳng đáng bao nhiêu chẳng cần hỏi cũng biết vì sao người ta luôn luôn yêu quý trâu. Tình cảm của người dân đối với trâu cũng đặc biệt hơn những loài động vật khác. Có lẽ ai cũng từng được nghe đến bài thơ sau đây, trong thơ trâu được gọi một cách vô cùng thân thiết và trìu mến cùng với những lời hứa hẹn:

“ Bao giờ cây lúa còn bông

Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn”

Trâu được biết đến là một loài động vật nhai lại chính vì vậy chỉ cần được ăn chúng sẽ ăn rất nhiều và nhanh để đến khi rảnh rỗi bắt đầu ợ lên nhai lại móm mém như người già. Trâu có rất nhiều lợi ích thông thường người ta nuôi trâu để lấy sức kéo cày, trung bình một ngày trâu có thể cày được từ ba đến bốn sào ruộng, Còn ở những vùng miền núi xa xôi khi mà phương tiện di chuyển chưa được phát triển người dân dùng trâu để chở những mặt hàng nặng. Ngoài ra trâu còn cung cấp nguồn thực phẩm cho chúng ta như thịt và sữa. Thịt trâu là một loại đặc sản rất giàu chất đạm ở miền núi Sapa nổi tiếng với thịt trâu gác bếp vô cùng thơm ngon bổ dưỡng. Sữa trâu cũng là một trong những nguyên liệu không thể thiếu để chế biến ra sữa chua, kem, bánh kẹo,… Người ta cũng hay lấy da và sừng trâu để sản xuất đồ mĩ nghệ như trống, tù,… Ngay cả đến chất thải của nó cũng được người dân tận dụng để dùng làm phân bón hữu cơ cho cây trồng phát triển. Hẳn là mọi người vẫn chưa quên được hình ảnh chú trâu biểu tượng cho Seagame 22 đã làm cho bạn bè trong và ngoài nước vô cùng ngạc nhiên và thích thú trước vẻ đáng yêu của con trâu. Trâu còn gắn bó mật thiết với đời sống tâm linh của con người. Trong 12 con giáp của Việt Nam trâu cũng góp mặt trong đó có thể gọi bằng ngưu, hoặc sửu. Trâu gắn bó với con người về mặt tuổi tác, người ta thường nói những người mang trong mình tuổi trâu thì thường sẽ có sức khỏe mạnh mẽ, siêng năng , tự lập, và rất nhiều đức tính đáng quý khác. Người nông dân ở mọi thời đại từ xa xưa cho đến nay đều một nắng hai sướng cày cấy để làm ra những hạt gạo quý như hạt ngọc trời, Thành quả của họ đã nuôi sống cả xã hội. Đóng góp một phần công sức trong đó chính là chú trâu chậm chạp mà vô cùng cần mẫn siêng năng của chúng ta. Hiện nay công nghiệp hóa hiện đại hóa hàng loạt các loại máy móc ra đời thay thế sức kéo của trâu, nhưng vai trò của trâu trong lòng người nông dân chưa bao giờ thay đổi luôn luôn xuất hiện những hình ảnh đầm ấm như câu thơ sau đây:

“Trên đồng cạn dưới đồng sâu

Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”

Đó là một nét đẹp mộc mạc giản dị, đầy tình yêu thương của con người. Trâu mang nhiều lợi ích trong ngành kinh tế cũng như ngành trồng trọt chăn nuôi vì vậy chúng ta cần có những biện pháp thiết thực bảo vệ trâu, cũng như bảo vệ một phần tinh thần của người dân Việt Nam.

Hiện nay với sự xuất hiện nhiều của máy móc thì đồng nghĩa với sự xuất hiện của con trâu trên đồng quê Việt Nam dần ít đi. Nhưng đối với người dân Việt Nam thì con trâu luôn chiếm giữ một vị trí quan trọng.

Thuyết minh về con trâu bài 7

Có lẽ với mọi người hình ảnh con trâu vô cùng quen thuộc vì nó luôn luôn xuất hiện trong những bức tranh phong cảnh đồng quê nhưng không phải ai cũng dành thời gian tìm hiểu kĩ về trâu.

Trâu Việt Nam có nguồn gốc từ trâu rừng thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm lầy. Trâu rừng là tổ tiên của các loài trâu nhà, sinh ở vùng Đông Nam Á nhiệt đới gió mùa thấp ẩm, hiện còn tồn tại ở miền Trung nước ta. Khoảng 5- 6 ngàn năm trước, trâu đã thuần hóa cùng với sự ra đời nền văn minh lúa nước. Người Việt cổ đã biết săn bắt trâu, thần hóa chúng để giúp con người trong việc cày cấy.

Trâu là động vật thuộc lớp thú, màu da thường là màu đen với lớp lông mao bao phủ toàn thân. Da trâu rất dày, có lông tơ như chiếc áo choàng. Thấp thoáng trong bộ áo đẹp đẽ là một làn da căng bóng mỡ. Trâu có một cái đuôi dài, thường xuyên phe phẩy như cái quạt của con người để đuổi ruồi và muỗi. Hai tai dài cũng trợ giúp cho cái đuôi rất nhiều. Tai trâu khá thính, nó giúp trâu nghe ngóng được những tiếng động xung quanh. Người nông dân có thể nhận biết sự lành, dữ ở loài trâu một phần nhờ đôi sừng trên đầu. Trâu có đôi sừng dài, uốn cong hình lưỡi liềm, giúp trâu làm dáng và tự vệ chống lại kẻ thù. Trâu có một đặc điểm rất nổi bật là không có hàm răng trên, có thể vì vậy mà trâu phải nhai lại thức ăn. Không như các động vật khác, trâu có một kiểu ngủ rất đặc biệt.Hai chân trước của trâu gập vào trong, đầu ghé lên đó để ngủ.

Trâu mỗi năm chỉ đẻ từ một đến hai lứa, mỗi lứa một con. Trâu nuôi con bằng sữa tiết ra từ tuyến vũ. Trâu con gọi là nghé, nghé sơ sinh nặng khoảng 22-25kg. Khi mới sinh ra khoảng vài giờ đến một ngày, nghé có thể đứng thẳng, vài hôm sau có thể mở mắt, đi lại theo mẹ.Nghé lớn rất nhanh, nghé chưa có sừng, lớn lên sừng mới nhú dần ra nhưng các bộ phận bên ngoài chắc khác gì mẹ trâu.

Có những hình ảnh tôi nhớ mãi không quên đó là những chú trâu đang thong thả gặm cỏ hay đầm mình trong dòng mương mát rượi, thì lũ trẻ bày trò chơi trận giả. Cũng có lúc ta gặp cảnh thật yên bình, yên ả: các cậu bé, cô bé chăn trâu nằm nghỉ ngơi trên lưng trâu ngắm cảnh diều sáo vi vu trên bầu trời. Hình ảnh tuyệt vời của trẻ thơ chăn trâu được các nghệ nhân đưa vào tranh Đông Hồ.Nhìn tranh, ta lại nhớ câu thơ của nhà vua Trần Nhân Tông trong “Thiên trường vãn vọng”: “Mục đồng sáo vẳng, trâu về hết”. Và cũng có thể, trên cánh đồng lúa, ta còn bắt gặp những em bé nông thôn vừa chăn trâu, vừa học bài.Thời thơ ấu ở làng quê thật đẹp biết bao!

Ngày nay, khi nông thôn đổi mới, máy móc nhiều cũng là lúc trâu được nghỉ ngơi . Còn nhớ những ngày người nông dân phải kéo cày thay trâu thì mới thấy cái giá trị khi có trâu. Trâu đã là biểu tượng của SEA Games 22 Đông Nam Á tổ chức tại Việt Nam . Biểu tượng “trâu vàng” mặc quần áo cầu thủ đón các vận động viên là sự tôn vinh trâu Việt Nam, tôn vinh người nông dân lao động.Trâu còn là một vật linh thiêng vì nó là một trong mười hai con giáp.Cứ mỗi năm vào mùa hè ở Đồ Sơn lại tổ chức hội chọi trâu để tìm con trâu khỏe nhất. Và trong chúng ta rất ít người biết về sự tích sông Kim Ngưu…

Biết bao thế kỉ đã trôi qua, có lẽ từ khi nền văn minh lúa nước của người Việt khởi nguồn thì loài trâu cũng đã trở thành báu vật của người nông dân. Trên nền bức tranh thiên nhiên của làng quê Việt, bên những cánh đồng xanh tốt, thẳng cánh cò bay, dưới lũy tre làng luôn có hình ảnh quen thuộc của con trâu hiện diện. Chúng ta chăm sóc và bảo vệ trâu chính là ta đã giữ gìn một biểu tượng văn hóa truyền thống của người Việt.

Bên trên mình đã tổng hợp một số bài thuyết minh về con trâu để cho các bạn có thể hiểu hơn về đặc tính của chúng.

Coi thêm tại : 7 Bài văn thuyết minh về con trâu hay đạt điểm 10 của Bộ GD


by via Học Dễ - Giúp bạn học tập dễ dàng hơn - Feed